bị gặm mòn. Chủ nhân của những món đồ này hiện đang nằm ngủ giữa cái
ghế sofa ba chỗ, duỗi thẳng ra và với chiều dài cơ thể của nó, khó ai có thể
ngồi cạnh nó được.
Burden kiếm một cái ghế nhỏ lưng thẳng để ngồi và trong khi bà Lyall đi
pha trà, anh nhằm vào Ginger, thì thầm không ra tiếng vài lời thóa mạ đã
được cân nhắc kỹ. Trà và bánh được đem ra. Ginger vẫn chìm trong giấc
ngủ, ngáy nhè nhẹ và quơ chân như mơ thấy gì đó. Burden hỏi về căn nhà
số bốn trong dãy Victoria. Khu vườn của bà Lyall quay lưng vào khu vườn
của căn nhà số bốn đó. Bà ta đã nhìn thấy gì từ cửa sổ phòng khách vào
tuần trước? Bà ta có trông thấy ai đó ra vào bằng cửa sau không? Hoặc là
nhẹ nhàng đi vào qua lối cửa sổ của phòng khách cũ nát với những tấm kính
màu và chấn song uốn cong theo phong cách nghệ thuật mới nổi?
“Nếu Ginger có thể nói được,” bà Lyall nói, “nó sẽ có vài chuyện để kể.
Nó dành phần lớn thời gian ở trong khu vườn đó, đối với nó, chỗ ấy giống
như rừng cây nhỏ. Dĩ nhiên, nó hiểu được mọi thứ người ta nói với mình,
nó là một con mèo cực kỳ thông minh. Chỉ là nó không thể nói chuyện mà
thôi.” Rồi bà ta bồi thêm, “Không phải bởi vì mèo không đủ thông minh.
Mà là do có gì đó trong kết cấu vòm họng của chúng. Tôi đã đọc được điều
đó trong một tờ tạp chí về mèo.”
“Nhưng bà đã nhìn thấy gì, thưa bà Lyall?”
“Thỉnh thoảng tôi nghĩ rằng mình đã sai khi để nó ra ngoài đó. Ra ngoài
mọi lúc, ý tôi là vậy. Những người bạn của tôi nói rằng tôi không nên làm
vậy và đúng là tôi rất lo lắng khi nó mất tích. Ý tôi là, bất cứ chuyện gì
cũng có thể xảy ra với nó khi ở trong căn nhà đó. Dù kẻ nào đã giết cô gái
ấy đi chăng nữa, hắn cũng chẳng ngần ngại giết thêm một con vật, đúng
không?”
“Không hẳn thế đâu.”
Burden tự nhủ rằng, dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, anh vẫn phải duy
trì thái độ lịch sự và tiếp tục thẩm vấn một cách khéo léo và cân nhắc. Có lẽ
anh thậm chí phải có chiến lược thích hợp hơn cho gia đình này và đặt ra
những câu hỏi từ quan điểm của Ginger. Nuốt xuống một cách khó khăn và
hít một hơi thật sâu, anh bắt đầu lại.