Hannah lắc đầu sốt ruột. Tại sao Wexford không thể nhớ phải nói là
“bà”?
“Tôi không nhìn thấy mặt anh ta. Anh ta đội mũ trùm đầu. Ý tôi là, anh
ta mặc một chiếc áo lông cừu có mũ trùm đầu. Ừm, hầu hết những người trẻ
tuổi đều mặc chúng. Tôi không nghĩ anh ta còn trẻ. Anh ta không phải là
một cậu bé.”
“Cao hay thấp? Gầy hay mập? Và bao nhiêu tuổi?”
“Hơi cao,” cô ta nói. “Khá gầy. Tôi ước gì mình có thể nhớ được nhiều
hơn. Nhưng mọi người luôn nói vậy, đúng không? Tôi không nghĩ anh ta
còn trẻ, mặc dù tôi không biết diễn tả như thế nào. Bốn mươi tuổi, tôi nghĩ
vậy. Ít nhất là bốn mươi.”
“Thật tiếc vì cô không thể nhớ được gì hơn,” Hannah nói. “Cô không
nhìn thấy Amber ư? Không, tôi nghĩ là không. Cô có biết cô ta hay đến câu
lạc bộ không?”
Wexford ước gì Hannah có thể đưa ra giọng điệu ít chỉ trích hơn. Cô là
một phụ nữ xinh đẹp trong mắt nhiều gã đàn ông, cao, thon thả, với khuôn
mặt của thánh nữ El Greco và mái tóc bồng bềnh đen nhánh, nhưng anh tự
hỏi liệu cô có đi đến các câu lạc bộ hay từng ra ngoài vào lúc mười một giờ
đêm hay không, dĩ nhiên là trừ những ngày trực.
“Tôi thực sự không biết,” Lydia Burton nói. “Tôi chưa từng gần gũi với
Amber. Chúng tôi chỉ chào hỏi khi nhìn thấy nhau.”
Wexford hỏi cô ta về những người sống ở các căn hộ khác tại dãy nhà
Jewel.
“Ông già sống ở nhà số một là ông Nash, sau đó là vợ chồng Brooks tại
nhà số hai, mà mọi người vẫn gọi là John và Gwenda.”
Họ nhìn cô ta quay trở vào căn nhà đầu tiên trong dãy, một căn hộ gọn
gàng như các căn hộ khác, lát gạch đỏ với mái đá. Khu vườn phía trước của
cô ta là một bãi cỏ nhỏ hình vuông được bao quanh bởi những bụi cây oải
hương; một trang trại trồng hoa hướng dương rất lớn của ông Nash, cao ba
mét với những đóa hoa mặt trời hướng lên trên; nhà Brooks thì nằm trọn
trong khuôn viên hình chữ nhật của hàng rào được tỉa tót kỹ càng. Buổi
sáng đã trở nên rất nóng với nhiệt độ khác thường tại Anh, không khí nặng