vang rộn những tiếng nện ầm ầm, mặc dù khu đại sảnh, dường như đang
trong quá trình ốp lại, là một đống hỗn độn gồm ván gỗ, chậu keo, bàn chải,
giấy và giẻ lau.
“Nhưng không có gạch,” Wexford lưu ý Burden.
Dù đã kỳ vọng, họ vẫn phải rung chuông cửa tới hai lần mới có người ra
mở. Đó là một thiếu nữ trong bộ váy denim ngắn cũn, áo ngực lộ ra ngoài,
trước sự khoái trá của Wexford, Burden hướng mắt đi chỗ khác dù đang cố
kiềm chế những ham muốn trỗi dậy trong mình.
“Có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi có hẹn với bà Hilland,” Wexford nói, và bước vào trong nhà
giữa đống vật liệu xây dựng ngổn ngang mà không cần biết có được phép
hay không. “Và cô là?”
Trong chốc lát anh nghĩ rằng cô gái sẽ nói anh không có việc gì ở đây cả,
nhưng cô ta lại nhượng bộ và trả lời, “Cosima Hilland.”
“Daniel là anh trai cô à?”
Mọi người đều biết điều đó, ánh mắt của cô ta đã nói lên điều này. Câu
hỏi không cần thiết phải trả lời. Bước qua một đống chậu và ván gỗ, cô gái
dẫn mọi người đến trước một cánh cửa đôi và nói, “Ở trong đó,” như thể cô
ta đang nghĩ tốt nhất là để hai người họ tự đẩy cửa.
Mẹ cô gái cùng tầm tuổi như Diana Marshalson, một người phụ nữ gầy
guộc, có mái tóc vàng nhạt và trông có vẻ mệt mỏi. Bà ta đứng dậy khỏi
chiếc ghế bành đang ngồi, viết gì đó lên bàn. Wexford để ý thấy, từ khoảnh
khắc họ bước vào căn nhà, đây là một trong những căn hộ hiếm hoi có máy
điều hòa nhưng có lẽ chỉ là một trong số rất nhiều nhà ở Riverbank Close.
Không mở cửa sổ, căn phòng mát mẻ như thời tiết mùa thu. Bên ngoài, ánh
mặt trời chói chang trên đám cỏ khô và hành hạ lũ cây cối đến rũ lá.
Người đàn bà không nói gì cả, không cười và cũng chẳng đưa tay ra bắt,
nhưng lại trợn đôi mắt màu nâu lên đến nỗi những đường kẻ bằng chì biến
mất vào trong vành mắt. Wexford coi đấy là câu hỏi về việc họ vào nhà bà
ta giống như cô con gái đã hỏi, “Có chuyện gì?” Không cần được mời,
Burden ngồi xuống, và Wexford, ngay khi bà ta quay trở lại ghế bành, cũng
ngồi xuống nốt. Họ đã gọi điện thông báo cho bà ta trước cuộc viếng thăm