phòng, và ngay khi ra khỏi, liền giậm chân trên cầu thang, mạnh tới gấp ba
lần trọng lượng của cô. Bà Hilland quay sang nhìn họ với nụ cười gượng
gạo. “Giờ thì xong rồi chứ?”
“Hiện tại là thế,” Wexford trả lời.
Ra ngoài, Burden lau trán bằng một chiếc khăn tay khử trùng, mặc dù
trong nhà không khí khá mát mẻ. “Bà ta sẽ ra nhặt cái lon bây giờ đấy.”
“Thật đáng tiếc, bà ta đã phí phạm năng lượng vào những lời xỉ vả dữ
dội khi đã quá muộn. Tại sao Diana Marshalson lại không nói cho chúng ta
biết về căn hộ đó?”
“Chắc bà ta nghĩ nó không liên quan, tôi cho là vậy. Đúng không?”
“Không biết,” Wexford nói. Anh rú lên và rụt tay khỏi cửa xe; phần kim
loại đã trở nên nóng rẫy. “Lạy Chúa, đau quá. Nếu không có chồng bà ta,
Diana sẽ vô cùng sung sướng trước viễn cảnh được nhìn thấy Amber vốn
chưa từng hòa hợp với bà ta và đứa nhỏ mình vẫn coi là cục nợ rời khỏi
nhà.”
“Anh đang nói là điều này bác bỏ toàn bộ động cơ giết Amber của bà ta.
Không phải tôi nghi ngờ bà ta nhưng bà ta thực sự ghét cô gái và chẳng có
chứng cứ ngoại phạm.”
“Chồng bà ta chắc sẽ lưu ý nếu như bà ta rời khỏi nhà. Dù thế nào thì bà
ta cũng không làm như thế. Bà ta có đủ lý do để không sát hại Amber. Để
cô ta đến Crenthorne Heath, mang theo đứa bé và có thể họ sẽ không bao
giờ nhìn thấy cô ta nữa.”
“Tôi tự hỏi,” anh nói khi họ vào trong xe, “liệu giữa hai gia đình có sự
ghen ăn tức ở không. Nhà Marshalson, có lẽ là từ khi Diana rời công ty,
dường như không phải dạng quá lắm tiền nhiều của. Họ chẳng có căn hộ
nào ở Luân Đôn cả. Nếu có, Amber và Brand đã định cư ở đấy cho đến giờ
rồi.”
“Và cô ta hẳn vẫn còn sống.”
“Có thể. Nhưng cái ‘nếu như’ ấy là vô dụng, đúng không? Chúng ta
không thể nói trước được tương lai và cảm ơn Chúa vì điều đó. Luật cơ hội
và ngẫu nhiên chi phối mọi thứ. Ví dụ, Donaldson có thể đưa chúng ta quay
trở lại Kingsmarkham bằng cách đi vòng qua Stowerton hoặc đi theo đường