cùng một sắc thái. Người bạn trai - một loại “con rể theo thông luật,” như
Wexford đã nói với Burden lúc trước - ăn vận trông giống kẻ côn đồ thế kỷ
XXI trong lễ hội hóa trang. Tóc anh ta màu xám, dài và buộc đuôi ngựa.
Anh ta đeo cả tá khuyên xỏ trên vành một bên tai và một cây Thánh giá
bằng bạc hay kim loại màu trắng treo lủng lẳng giữa phần tam giác của bộ
ngực lông lá màu xám lộ ra sau chiếc áo vest trắng bẩn thỉu. Những hình
xăm dữ tợn màu đỏ, đen và xanh bông cải bao phủ cả cánh tay. Anh ta mặc
cái quần bó sát với vài vết sờn ở viền và hai lỗ rách trên hai đầu gối ở ống
quần.
Wexford nói một cách lịch sự, “Chào buổi tối,” và hỏi tên của họ.
Mẹ của Megan dường như đã quên béng cái họ Bartlow từ lâu và không
nhớ nổi nữa. “Lapper, Sandra Lapper,” bà ta nói và rồi, “Ôi lạy Chúa,
không phải. Tôi bị mắc chứng mau quên. Là Warner vì tôi đã kết hôn với
Warner tuần trước. Thật ngốc nghếch!.”
“Tên tôi là Keith. Keith Prinsip.”
Người đàn ông có khuôn mặt đen thui, nhăn nheo với một cái miệng
rộng nhưng môi mỏng và đôi mắt ti hí bên dưới hàng mi trông như cái mũ
có màu nho đen. Anh ta tựa vào ghế, một chân vắt chéo lên đầu gối bên kia,
mím môi và huýt sáo không ra tiếng với chính mình. Bà Warner lục lọi
trong một chiếc túi xách màu đen trang trí bằng nhiều dây đai lẫn khóa mạ
vàng và đưa ra một bức ảnh được bọc trong giấy bóng. Burden tiếp nhận
bức ảnh, xem xét kỹ rồi đưa qua Wexford. Vẻ ngoài của Megan giống như
hiện thân cho sắc đẹp của tuổi trẻ, mũi to và cằm nhỏ. Cô ta có một mái tóc
vàng rất dài và thẳng, với phong cách trang điểm giống hệt bà mẹ.
“Bà có một cô con gái nữa tên là Lara phải không, thưa bà Warner?”
Wexford hỏi.
“Làm sao anh biết?”
Cảnh sát sẽ chẳng bao giờ trả lời những câu hỏi như vậy. “Hãy kể cho tôi
chuyện gì đã xảy ra.” Wexford nhìn từ người này sang người khác, không
có ý định chỉ ra ai trong số họ là người phải kể. Sandra Warner nhìn Keith
Prinsip và Prinsip lại tiếp tục huýt sáo không ra tiếng nhưng chẳng nói câu