đều tìm kiếm, nó khiến những người sống trên tầng áp mái trở nên mơ
mộng.
Đối với Oskar, sân chứa đầy nguy hiểm, còn tầng áp mái thì an toàn cho
đến khi Axel Mischke cùng đồng bọn trục nó ra khỏi đó. Sân có chiều rộng
bằng cả khu nhà, nhưng chỉ sâu bảy bước, phía sau có một hàng rào gỗ quét
hắc ín, trên phủ dây thép gai, ngăn cách với các sân khác. Từ tầng áp mái,
có thể nhìn rất rõ cái mê cung bên trong khối nhà giới định bởi bốn phố:
Labesweg phía sau, Herta và Louise hai bên, và Nữ thánh Marie cách một
quãng ở đằng trước. Trong cái hình chữ nhật lớn bao gồm nhiều khoảng sân
xệch xẹo ấy, còn có một xưởng sản xuất kẹo chống ho và mấy xưởng sửa
chữa vặt. Đây đó trong các sân, hiện rõ những cây lớn cây nhỏ đánh dấu
nhịp mùa đi. Các sân, bất kể rộng hẹp và hình dạng khác nhau, đều có thỏ
và dụng cụ để đập thảm. Thỏ thì ngày nào cũng có mặt và hoạt động, nhưng
còn thảm thì theo nội quy của khu chung cư, chỉ được làm vệ sinh vào
những ngày thứ ba và thứ sáu. Vào những ngày này, mới thấy rõ quy mô
thực sự của khối nhà. Từ trên tầng áp mái, Oskar nhìn và nghe thấy rõ mồn
một: hơn trăm tấm thảm các loại: thảm lớn trải phòng, thảm dài trải hành
lang, thảm nhỏ trải chân giường, được xát bằng dưa bắp cải, rồi chải, đập
thật kỹ cho đến khi hiện lên thật rõ các họa tiết. Một trăm mụ nội trợ, cánh
tay để trần tròn trĩnh, tóc chít gọn trong một nút khăn, khuân từ các nhà ra
hàng núi thảm, quăng đám tội đồ ấy lên những giá nhục hình, vớ lấy những
chày đập và không gian bỗng tràn ngập những tiếng dập dồn như sấm.
Oskar chúa ghét cái khúc nhạc ngợi ca sự sạch sẽ ấy. Nó đấu tranh với
tiếng ồn đó bằng cái trống của mình; tuy nhiên, ngay cả trên tầng áp mái
cách xa nguồn sấm, nó vẫn chịu thua. Một trăm mụ đàn bà đập thảm có thể
công phá cả bầu trời và xén cụt cánh những con én trẻ; chỉ với dăm bảy cú
đập, họ đã làm đổ nhào ngôi đền nhỏ mà cái trống của Oskar đã dựng lên
trong không khí tháng tư.