Cho đến bây giờ, tôi vẫn thấy xấu hổ khi thỉnh thoảng nghĩ đến cách ứng
xử ghê tởm của mình, nhưng tôi tự an ủi bằng ý nghĩ rằng Jan không nhận
thấy gì hết, ông còn đang để hết tâm trí vào những quân bài của ông và cứ
thế cho đến giờ phút cuối, rằng không gì còn có thể kéo ông ra khỏi tâm
thái đó, kể cả những cơn hứng tức cười nhất hay quỷ quyệt nhất của bọn
cảnh vệ. Jan đã sang tận cái vương quốc vĩnh cửu của những ngôi nhà và
lâu đài bằng quân bài ở Tây Ban Nha, nơi đó con người tin ở hạnh phúc,
trong khi bọn cảnh vệ và tôi - vì lúc đó Oskar kể như mình đang ở trong
hàng ngũ cảnh vệ - đứng giữa những bức tường gạch, trong những hành
lang đá, dưới những trần nhà với những gờ xtuých-cô xoắn xuýt với những
tường và vách ngăn nhằng nhịt đến nỗi có thể một ngày kia điều tệ hại nhất
sẽ xẩy ra khi mà, do một sự cố nào đó, toàn bộ cái sự chắp vá mà ta gọi là
kiến trúc này sẽ bong ra, rơi rụng lả tả.
Dĩ nhiên, nhận thức muộn màng này không thể biện minh cho tôi, nhất là
khi người ta nhớ lại rằng tôi không bao giờ nhìn một công trình đang xây
dựng mà không hình dung đến lúc nó bị phá hủy và rằng tôi luôn luôn coi
những ngôi nhà bằng quân bài là chỗ ở duy nhất xứng đáng với nhân loại.
Và ngoài ra, còn một nhân tố khép tội nữa. Buổi chiều hôm ấy tôi cảm thấy
tuyệt đối chắc chắn rằng Jan Bronski không phải chỉ là bác hoặc bố khả-thể,
mà là bố thật của tôi. Điều đó đặt ông lên trên Matzerath, một lần cho mãi
mãi, vì Matzerath thì hoặc là cha tôi, hoặc chả là gì cả.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939 - tôi chắc quý vị, vào cái buổi chiều bất hạnh
ấy, cũng đã nhận ra Jan Bronski, người xây nhà-quân-bài đầy ơn phước, là
cha tôi - đánh dấu sự mô đầu gánh nặng tội lỗi thứ hai của tôi.
Ngay cả khi tôi cảm thấy ái ngại nhất cho bản thân mình, tôi cũng không
thể phủ nhận điều này: chính cái trống của tôi, không, chính tôi, Oskar tên
đánh trống, đã tống khứ, đầu tiên là mẹ tội nghiệp của tôi, rồi đến Jan
Bronski, bác và cha tôi, xuống mồ.