kia phạm tội đốt nhà, tôi xin nói thẳng, kẻ đó đáng bị buộc một hòn đá vào
cổ quăng xuống... ”
Đại uý Hecht, như các bạn hẳn đã nhận thấy, là một cha xứ, một nhà hùng
biện; mỗi chủ nhật, ông lên giảng đài nhà thờ giáo xứ St. Barbara ở
Langgarten và trong suốt thời gian điều tra vụ Koljaiczek - Wranka, ông
không ngừng oanh tạc các tin đồ của mình bằng những ngụ ngôn về người
lính cứu hoả nhà trời và con quỷ đốt đền của địa ngục.
Nhưng vì đám thanh tra của đội cảnh sát hình sự không đến St. Barbara
nghe giảng đạo và vì đối với họ, cái từ Phượng Hoàng có vẻ như một sự khi
quân hơn là một minh oan cho Wranka, nên người ta coi những hoạt động
của Wranka trong đội cứu hoả tình nguyện như một căn cứ phụ để buộc tội.
Người ta thu thập chứng cứ từ các xưởng cưa, từ nơi sinh của cả hai
người: Wranka ra đời ở Tuchel còn Koljaiczek thì chôn nhau cắt rốn tại
Thorn. Đem khớp những lời khai của những thợ bè lớn tuổi và bà con xa
của hai người, thì trật ra những mâu thuẫn nhỏ. Già néo đứt dây. Khi tiến
trình điều tra đến đoạn này thì con bè lớn bắt đầu vào lãnh thổ Đức; từ
Thorn trở đi, nó bị bí mật giám sát và các thủy thủ lên bờ đều bị theo dõi.
Mãi sau khi đi qua Dirschau, ông ngoại tôi mới nhận thấy mình “có
đuôi”. Ông vẫn chờ đợi thế. Tuồng như một trạng thái mụ mẫm sâu xa mấp
mé chứng suy nhược thần kinh đã ngăn ông “cắt đuôi” ở quãng gần Letzkau
hoặc Käsemark; ở cái vùng ông thuộc như lòng bàn tay này, với sự đồng loã
của một vài tay thợ bè tận tình, ông thừa sức làm được điều đó. Từ Einlage
trở đi, khi những bè gỗ va đập nhau từ từ trôi vào sông Vistula - Chết, một
tàu đánh cá với đoàn thủy thủ đông quá mức cần thiết liền áp sát theo, cố
gắng một cách lộ liễu để tỏ ra không lộ liễu. Ngay sau khi qua Plehnendorf,
hai chiếc xuồng máy của cảnh sát cảng vụt lao ra từ đám sậy ven bờ và bắt
đầu rẽ sóng tới lui trên làn nước càng gần đến cảng càng lợ của sông Vistula
- Chết. Vòng vây cảnh sát vận đồng phục xanh lơ bắt đầu từ bên kia cây cầu
dẫn tới Heubude và dăng khắp các bãi gỗ trông sang Klawitter, các xưởng