cho tôi: "Ngươi là Oskar, tảng đá, và trên tảng đá ấy, ta sẽ xây Nhà thờ của
ta. Hãy theo ta."
Quý vị có thể tưởng tượng được nỗi bất bình của tôi. Tôi phát khùng đến
nổi cả da gà. Tôi bẻ một ngón chân thạch cao của cậu, nhưng cậu không hề
nhúc nhích. "Nhắc lại coi," Oskar rít lên, "tao sẽ cạo tuột sơn khỏi người
mày."
Sau đó, không một lời nào nữa. Chỉ có ông già mọi khi, ông già muôn
thủa lệt xệt đôi dép lê khắp các nhà thờ trên thế giới, ông liếc mắt về phía
ban thờ bên trái nhưng không trông thấy tôi, và lại lệt xệt đi tiếp. Ông đã
đến chỗ thánh Adalbert thành Praha khi tôi lật đật xuống các bậc, rảo bước
từ thảm sang sàn đả lát và, không ngoái lại, vượt qua nhưng ô bàn cờ tới
chỗ Maria đúng lúc ấy đang làm dấu thánh giá đúng theo cách tôi đã chỉ
dẫn.
Tôi nắm tay nàng dẫn đến bồn nước thánh; đến đúng trước cửa ra vào, tôi
bảo nàng làm dấu thánh giá một lần nữa hướng về phía ban thờ chính,
nhưng tôi không làm theo và khi nàng định quỳ gối, tôi kéo tuột nàng ra
ngoài ánh mặt trời.
Trời đã ngả chiều. Đám phụ nữ Ukraina đã rời khỏi đường tàu. Nơi họ
làm việc ban nãy, một chuyến tàu hàng đang rẽ sang đường ray khác, ngay
gần ga Langfuhr. Lơ lửng trên không từng đàn muỗi. Từ trên cao, vắng
xuống những hồi chuông, hoà lẫn với những tiếng động trên đường sắt.
Muỗi vẫn túm tụm từng đám. Mặt Maria đầm đìa nước mắt. Oskar những
muốn gào lên. Tôi phải làm gì để đối phó với Jêxu đây? Tôi cảm thấy muốn
nạp năng lượng cho giọng mình. Tôi phải làm gì với cây thánh giá của cậu
ta? Nhưng tôi thừa biết giọng tôi hoàn toàn bất lực đối với những cửa sổ
nhà thờ của cậu ta. Cậu ta cứ việc xây giáo đường của mình trên những
người tên là Pierre. "Cẩn thận đấy, Oskar, đừng động đến những cửa sổ nhà
thờ," Xa-tăng thì thầm bên trong tôi. "Kẻo tay ấy sẽ làm tiêu giọng của cậu
đó." Tôi phóng một tia nhìn lẻ loi lên thử đo kích thước của một trong