sàn đá lát, xuôi theo hai cánh, ngước lên chính điện, đánh đu vào dàn đồng
ca, nhân lên sáu mươi lần như một Hội J.-S. Bach không hát mà lấy ho làm
nghiệp vụ chuyên môn và đúng lúc tôi bắt đầu nghĩ rằng cơn ho của mình
đã chui vào những ống của đại phong cầm và im tiếng, thì kìa, một tiếng ho
vang lên trong phòng mặc áo lễ rồi một tiếng khác từ chỗ bục giảng kinh
cho đến khi, chung cuộc, tiếng ho tắt dần, trút hồn đằng sau ban thờ chính,
cách chỗ Lực sĩ Vác Thánh giá không xa. Xong rồi, cơn ho của tôi nói;
nhưng chưa có gì xong cả. Chúa hài đồng Jêxu ngồi đấy, cứng đơ và kiêu
kỳ, kẹp cái trống của tôi giữa hai đùi thạch cao, tay cầm dùi mà không chơi,
khước từ việc xác nhận sứ mệnh của tôi. Vì Oskar muốn có sự xác nhận
bằng văn bản.
Thời kỳ ấy để lại trong tôi một thói quen hay một thói xấu: cứ đến giáo
đường, kể cả những nhà thờ lớn nổi tiếng, là tôi bắt đầu ho, ngay cả những
lúc sức khoẻ tôi tốt nhất. Đặt chân vào chính điện một cái là một cơn ho
xâm chiếm tôi; nó có thể mang phong cách Gô-tich, hay Rô-man hay thậm
chí Ba-rốc, tuỳ theo kiểu kiến trúc của ngôi nhà thờ. Tôi dám chắc rằng
nhiều năm nữa tôi vẫn có thể dùng trống thể hiện cơn ho của Oskar trong
Nhà thờ lớn ở Ulm hay Speyer. Tuy nhiên, hồi ấy tôi đang chịu tác động
của một thứ Thiên Chúa giáo cực kỳ băng giá; chẳng có cơ hội nào để thăm
những nhà thờ ở những vùng đất xa xôi, trừ phi anh là lính tham gia những
cuộc rút lui nằm trong kế hoạch của Reichswhr, mỗi lần rút lại ghi trong
nhật ký, chẳng hạn: "Hôm nay, rút khỏi Orvieto; nhà thờ tuyệt mỹ. Sau
chiến tranh phải quay lại cùng Monica ngắm cho đã.”
Với tôi, trở thành một người chăm đi nhà thờ là chuyện dễ ợt, vì chẳng có
gì níu chân tôi ở nhà. Có Maria. Nhưng Maria còn có Matzerath. Có thằng
Kurt con trai tôi. Nhưng nó ngày càng trở nên không chịu nổi, nó ném cát
vào mắt tôi, cào cấu tôi hung đến nỗi những mảnh móng tay gẫy của nó
mắc lại trong thịt cha nó. Nó còn dứ hai nắm đấm về phía tôi và chỉ nhìn
những khớp ngón căng đến trắng ra, tôi đã muốn đổ máu mũi.