Trước khi tôi đập ba ô kính đầu tiên, tôi nghe thấy một con ruồi vo ve
trên đầu tôi. Trong khi hai ô kính nữa giã từ ánh trăng, tôi nghĩ: con ruồi
này chắc sắp chết nên mới vo ve to thế. Tiếp đó, tôi hát cho đen ngòm
những khung cửa sổ còn lại của tầng trên cùng. Những tia đèn pha trắng
bệch kia thật gớm ghiếc, tôi nghĩ thầm trước khi chùi sạch mọi phản quang
(có lẽ từ khẩu đội pháo gần Trại Narvik) khỏi các cửa sổ của tầng một và
tầng hai. Các khẩu đội ven biển khai hỏa và tôi hoàn tất công việc ở tầng
hai. Lát sau, các khẩu đội ở Altschottland, Pelonken và Schellmuhl nổ súng
theo. Thêm ba cửa sổ tầng trệt và máy bay tiêm kích cất cánh, rà thấp trên
nhà máy. Trước khi tôi kết thúc tầng trệt, pháo phòng không ngừng để cho
máy bay tiêm kích săn sóc một chiếc máy bay oanh tạc bị ba chùm đèn pha
ở Oliva phát hiện cùng một lúc.
Thoạt đầu, Oskar sợ rằng những cố gắng ngoạn mục của pháo phòng
không có thể làm phân tán sự chú ý của các bạn mới của tôi. Nhưng khi
hoàn tất công việc, tôi vui mừng khôn xiết khi thấy cả bọn há hốc miệng
ngắm những cải cách tôi mang lại cho xí nghiệp sô-cô-la. Ngay cả khi
những tiếng vỗ tay và "hoan hô!" dậy lên từ Hohenfriedberger-Weg gần đấy
như trong rạp hát vì chiếc máy bay oanh tạc đã bị bắn rơi và bốc cháy bên
trên khu rừng Jeschkenthan, cũng chỉ có vài đứa, trong đó có Mát-Tít,
ngoảnh mặt khỏi nhà máy bị lột hết kính cửa sổ. cả Störtebeker lẫn Ăn cắp
Lửa - hai đứa này mới là đáng kể - đều không quan tâm gì đến chiếc máy
bay oanh tạc bị hạ.
Một lần nữa, bầu trời lại vắng ngắt, chỉ còn vầng trăng và những vì sao
vụn. Các máy bay tiêm kích đã hạ cánh. Từ rất xa, vắng lại tiếng xe cứu
hoả. Störtebeker quay lại, phô cái vành miệng khinh khỉnh, và giơ nắm tay
lên tháo chiếc đồng hồ, đưa cho tôi không nói một lời. Rồi nó thở dài, toan
nói gì đó, song phải chờ còi báo yên tắt hắn. Cuối cùng, giữa những tiếng
vỗ tay của thủ hạ, nó bật ra: "Ô- kê, Jêxu. Nếu cậu ưng thì bọn tớ kết nạp
cậu vào băng. Chúng mình là những kẻ Quét Bụi, nếu điều ấy có ý nghĩa gì
đối với cậu."