thống Hopkins kể với họ rằng các con tin còn lại bị giữ trong Điện thờ Đức
Mẹ, ở mãi phía cuối nhà thờ. Ông nói thêm với vẻ quá ư bình tĩnh rằng
chúng không làm gì những người bị bắt giữ. Hình như bọn chúng được
huấn luyện cẩn thận và có kỷ luật. Chúng không phải là bọn khủng bố.
Chắc chắn bọn chúng là người Mỹ. Một tin mới với tôi.”
“Tin mới với tất cả chúng ta,” tôi nói lúc cửa lại mở sau lưng Reno.
Một cảnh sát Phản ứng nhanh đội mũ bóng chày cùng một người đàn
ông đứng tuổi đội mũ vải tuýt bước vào. Ông già cắp một cái ống hình trụ
to bằng các tông. Cái quái gì thế này?
“Tôi là Mike Nardy, quản lý thánh đường,” ông già nói và bật nắp ống
hình trụ. “Linh mục bảo tôi mang cái này đến đây.”
Tôi giúp ông ta trải các bản thiết kế ra. Giấy đã cũ, mép ố vàng, nhưng
các chi tiết của thánh đường rất rõ ràng. Tôi dùng mấy cái bộ đàm để chặn
bản thiết kế lúc mở nó ra, còn Reno, Oakley và chỉ huy Will Matthews cúi
xuống xem xét.
Nhìn từ trên xuống, thánh đường St. Patrick trông như một cây thánh
giá. Toàn bộ lối vào phía đại lộ Năm ở cuối bản vẽ dài, còn các lối vào ở
phố Năm mươi và Năm mươi mốt ở hai bên sườn ngắn hơn. Điện thờ Đức
Mẹ giống như phần mở rộng nhỏ ở đầu cánh dài của cây thánh giá, không
có lối vào hoặc ra.
“Tôi đã bố trí người bắn tỉa ở Saks trên phố Bốn mươi chín và số nhà
620 đại lộ Năm, ở đằng sau chúng ta,” Oakley nói. “Tôi sẽ phải đưa một
người vào phố Madison ở đằng sau để theo dõi Điện thờ Đức Mẹ. Quá tệ,
những cửa sổ kính màu kia mù mịt chẳng khác gì bức tường gạch. Ông
Nardy, sơ đồ này không nói lên được gì nhiều. Liệu có đường nào nhìn rõ từ
cửa sổ hình hoa hồng vào đằng trước Điện thờ Đức Mẹ ở phần cuối kia
không?”
“Một phần thôi,” ông già nghiêm trang nói, một con mắt của ông bị lác.
“Tuy vậy, đằng sau ban thờ có nhiều cột và một tấm màn che dài mười tám
mét, đó là một cấu trúc kiểu vọng lâu bằng đồng thiếc ở bên trên ban thờ.”
“Thánh đường là một khối nhà dài. Chắc dài khoảng một trăm năm mươi
mét?” Oakley nói với người phó của anh. “Chúng ta phải khảo sát xem. Có