phố này chặn đứng được một đạo quân. Chúng ta phải thâm nhập vào đó
mà không được phá hủy hoặc để lại một vết xước. Có ai nhắc cho tôi biết vì
sao tôi nhận việc này không?
“Vì những hợp đồng lén lút béo bở và những thỏa thuận sách vở,” tôi
nói. “Giống như bọn tôi thôi.”
Đây là một câu đùa chẳng đâu vào đâu, nhưng trong tình huống như vậy,
tôi không cần là người là người tài trí cũng tìm ra lối thoát khỏi sự căng
thẳng đang leo thang. Mọi người, kể cả Oakley gan góc, đều bật cười.
Sự thể là thế đấy, hoặc cười hoặc khóc.
• • •
Mười phút sau, chúng tôi đã ở ngoài không khí giá lạnh, nhìn chằm chặp
vào ngôi nhà thờ uy nghi. Lúc chúng tôi đi vòng sang phía bên kia của một
trong những xe rác, Oakley nói vào bộ đàm và ra lệnh cho những tay bắn tỉa
xoay một góc vào các cửa sổ không thể thay thế được của Điện thờ Đức
Mẹ.
Ánh sáng ảm đạm chiếu vào các cửa sổ tầng hai và lối vào hình cung của
nhà thờ. Tôi thấy đằng trước thánh đường giống hệt một khuôn mặt to
tướng: rộng, mắt đen và khuôn miệng rất lớn, đang há hốc dường như giận
dữ và sửng sốt.
Tôi đứng chết sững và suýt rút khẩu Glock ra khi những tiếng chuông
bắt đầu ngân vang. Tôi ngỡ lại là một chiêu mới của bọn cướp, cho đến khi
liếc nhìn đồng hồ và thấy đã mười hai giờ trưa.
Những tiếng chuông là thứ thiết bị bấm giờ, là hồi chuông cầu kinh Đức
Bà, nhắc nhở những người ngoại đạo đang bận rộn cầu nguyện cho sự thành
tâm đặc biệt nào đó mà tôi không sao nhớ ra. Nếu những tiếng chuông
không gợi nên một châm ngôn chung của bài kinh rôze, ít nhất cũng làm cả
đám cảnh sát, báo chí và những người đứng xem im bặt.
Mỗi hồi chuông dài, ngân vang như báo trước điềm gở cho các tảng đá,
nhôm và kính của các tòa nhà chọc trời xung quanh.