1964), Phụ lục I và II; A. R. Burn, “The Generalship of Alexander”, trong
Greece and Rome 1965, tr.140-54.
Sarissa (hoặc sarisa) là một cây giáo dài khoảng 4-7 mét được sử dụng
trong chiến tranh Hy Lạp cổ đại. Vũ khí này được vua Philip, cha của
Alexander Đại đế, đưa vào đội hình phalanx truyền thống của Macedonia.
(ND)
Xem G. T. Griffith, Proceedings of the Cambridge Philological
Association, 4 (1956/7), từ tr.3.
Gukhas theo tiếng Nepal nghĩa là chiến binh. Họ nổi tiếng vì sự thiện chiến
và lòng trung thành. (ND)
P. A. Brunt, “Alexander’s Macedonian Cavalry”, trong JHS 83 (1963),
tr.27-46, thảo luận về nhiều vấn đề liên quan tới đội kỵ binh của Alexander.
R. D. Milns đã chứng minh trong Greek, Roman and Byzantine Studies 7
(1966), tr.159-166.
Về các trung đoàn (Hipparchy), xem Phụ lục A.
Tên một dãy núi nằm giữa Afghanistan và Pakistan. Tên gọi Hindu Kush
có nguồn gốc từ tiếng Ả rập, có nghĩa là “Các ngọn núi Ấn Độ”. (ND)
E. Badian trong JHS (1965), tr.161.
Một cấp bậc quân sự thời cổ đại, chỉ người chỉ huy một đội quân gồm
1.000 người. (ND)
JHS 83 (1963), tr.39.
Về Ptolemy và Aristobulus, xem phần Dẫn nhập.
Vua Philip bị ám sát vào mùa hè năm 336 TCN. Kẻ ám sát nhà vua là một
quý tộc trẻ tuổi tên là Pausanias, người nhiều năm trước đó đã bị Attalus,
cha một thứ phi của Philip, xúc phạm. Tương truyền rằng, một trong những
lý do khiến Pausanias ra tay ám sát vị hoàng đế của mình là Pausanias lấy
làm oán hận việc Philip không cho phép anh ta chống lại Attalus.
Alexander và mẹ ông, Olympias, lúc đó đã xa cách với vua Philip, bị nghi
ngờ dính líu tới vụ việc này, dù những người anh em của Alexander ở vùng
Lyncestis đã bị hành hình vì tội đồng lõa, và sau này Alexander đã buộc tội
vua Ba Tư vì đã khoe khoang rằng ông ta đã mua chuộc Pausanias. Về chi
tiết, xem Diodorus 16.93-4; Aristotle Politics 1311b2. E. Badian, Phoenix