tích. Họ đi loanh quanh trong tình trạng u mê, vừa đi vừa hỏi
han, tìm kiếm sự giúp đỡ. Đáp lại câu hỏi của họ, mọi người chỉ
bắn lại những câu trả lời qua quýt, hoặc chỉ trỏ, còn hai bác
cháu gật đầu lia lịa vẻ biết ơn, nhưng chẳng thu được gì hết. Mất
đến một tiếng họ mới phát hiện ra mình phải bắt một chuyến
tàu nội đô để đến chỗ ông bạn của Ashraf. Cuộc hành trình kéo
dài hai mươi phút.
Một người được hỏi chỉ cho họ đi đúng đường. Căn nhà ở
kiêm cửa hàng chỉ cách nhà ga mươi phút đi bộ. Vỉa hè la liệt
người nằm ngủ. Từng vệt sáng vàng vọt yếu ớt hắt xuống từ các
cột đèn đường, rơi rớt như những giọt mưa vẩn đục trên những
hình người bọc giẻ rách, Omprakash rùng mình. “Trông chả
khác gì xác chết,” cậu thì thào. Cậu căng mắt nhìn họ, cố tìm
kiếm một dấu hiệu của sự sống – một lồng ngực phập phồng,
một ngón tay khẽ cựa, một hàng mi chơm chớp. Nhưng ánh
sáng đèn không đủ để cậu nhận thấy những cử động vụn vặt
như thế.
Cảm giác nhẹ nhõm dần thế chỗ nỗi sợ hãi khi họ tiến càng
lúc càng gần đến nhà của ông bạn Ashraf. Cơn ác mộng đi
đường sắp chấm dứt. Để đến được cửa hiệu, họ phải đi qua
những tấm ván bắc ngang một mương nước lộ thiên. Chân
Omprakash suýt nữa lọt qua một khe gỗ mục. Ishvar đã kịp túm
lấy khuỷu tay cháu. Họ gõ lên cửa.
“Chúng cháu chào chú ạ,” họ chào Nawaz, đôi mắt ngước lên
nhìn ông ta với vẻ mặt cần có đối với một kẻ ban ơn.
Nawaz hầu như chẳng buồn đáp lại lời chào. Ông ta vờ như
không biết tí gì về việc hai bác cháu sẽ tới. Sau ba lần bảy lượt
chối, ông ta mới nhận rằng quả đã có một lá thư của Ashraf, và
miễn cưỡng đồng ý cho họ ngủ dưới mái hiên sau bếp trong vài
ngày, cho đến khi họ tìm được chỗ ở. “Chỉ vì nể Ashraf nên tôi