này. Để gây rối thôi, cháu biết đấy, vì hồi đấy dân Kashmir đang
đòi độc lập mà.”
“Chuyện là thế này,” Rajaram nối lời, “sau hai tuần bạo loạn
và giới nghiêm, các thanh tra của chính phủ tuyên bố họ đã tìm
thấy sợi râu thiêng. Nhưng dân chúng không chịu – nhỡ chính
phủ lừa chúng tôi thì sao? Họ hỏi. Nhỡ họ lấy một sợi râu
thường rồi bảo đấy là sợi râu thiêng thì sao? Thế là chính phủ
bèn triệu tập một nhóm giáo sĩ Hồi giáo có tiếng là uyên bác và
giao cho họ nhiệm vụ thẩm tra sợi râu. Chỉ đến khi nhóm giáo sĩ
đó khẳng định sợi râu đúng là đồ thật, các đường phố Srinagar
mới bình yên trở lại.”
Ngoài trời, khói từ các bếp nấu đã xâm lăng cả bầu không khí.
Trong bóng tối có tiếng người gọi to: “Shanti! Mang củi ra đây
mau!” và một cô gái đáp dạ. Om nhìn theo: chính là nàng, cô gái
đội chiếc bình đồng lớn. Shanti, cậu thầm nhắc lại, bỏ rơi hứng
thú trước câu chuyện của anh chàng thu mua tóc.
Rajaram bê một hòn đá chặn lên cửa lán để gió không thổi
bung nó, rồi dẫn hai người thợ may đi một vòng các khu xung
quanh. Anh ta chỉ cho họ đường tắt ra ga tàu qua một lỗ thủng
trên hàng rào đường sắt. “Đi tiếp qua cái rãnh kia, đến khi nào
nhìn thấy mấy tấm biển quảng cáo lớn hình Bơ Amul và Bánh mì
Phong cách mới là tới. Như thế hai người sẽ tiết kiệm được ít
nhất mười phút mỗi lần đi làm.”
Anh ta cũng dặn hai bác cháu phải coi chừng khu ổ chuột
nằm ở rìa khu họ ở. “Đa số dân sống ở vùng giáp ranh đều là
người tử tế, nhưng có vài con ngõ rất nguy hiểm. Chuyện giết
chóc và cướp giật hoàn toàn có thể xảy ra nếu hai người lỡ đi
qua đó.” Đi qua vùng an toàn của khu ổ chuột, anh ta giới thiệu
họ với một quán nước quen, ở đấy họ có thể uống trà và ăn quà
chịu, đến cuối tháng mới phải trả.