hàng ngày, như thể họ đã thông đồng nhau trong một cuộc
phản bội tập thể với thời thơ ấu và tuổi trẻ của mình vậy.
“Cậu là đứa bạn duy nhất mình còn qua lại – cậu và Aban
Sodawalla, dĩ nhiên,” Zenobia.
Đoạn cô kể nốt phần còn lại câu chuyện đời của cô bạn học: ít
lâu sau kì thi đại học, Aban được các bạn bè của gia đình giới
thiệu cho một anh Farokh Kohlah nào đấy nhân dịp anh ta
xuống chơi thành phố, anh này có hẳn một sản nghiệp kinh
doanh trên miền bắc, cách đây rất xa, ở một thị trấn miền núi.
Gia đình Sodawalla ưng ý anh này ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Phong thái của chàng Parsi trẻ tuổi mới đứng đắn đĩnh đạc làm
sao, ông Sodawalla nắc nỏm, vóc người thật rắn rỏi, hẳn là nhờ
cuộc sống lành mạnh nơi miền núi. Bà Sodawalla lại bị ấn tượng
nhất bởi làn da sáng của anh ta. Không trắng ởn như ma kiểu
người Âu, bà bảo các bạn bè, mà vừa vặn và khỏe khoắn.
Cho đây là một mối tiềm năng, gia đình Sodawalla bèn khôn
khéo tổ chức một kì nghỉ ở thị trấn nói trên ngay trong năm tiếp
theo. Và, vừa hay, chiến lược đó đã mang lại kết quả mong
muốn. Aban đem lòng yêu Farokh Kohlah và vẻ đẹp thiên nhiên
của vùng đất. Rồi cô kết hôn và sống luôn ở đó.
“Cô ấy vẫn viết thư cho tớ mỗi năm một lần, không khi nào
sai hẹn,” Zenobia nói. “Thế nên tớ mới biết cô ấy đang tìm
phòng trọ cho con trai.”
“Thật may cho tớ quá,” Dina nói. “Cảm ơn cậu đã giúp tớ.”
“Có gì đâu. Nhưng có trời mới biết làm sao Aban sống nổi
ngần ấy năm trời trên cái thị trấn miền núi bé tin hin ấy. Nhất là
sau khi được sinh ra và lớn lên ở thành phố đáng yêu của chúng
ta. Thành thực mà nói, phải tớ, chắc tớ phát điên mất.”