Khi ấy, anh áp một cái khăn mù soa che đám bầy nhầy trên
mặt rồi chạy lên gác tìm vợ. Lúc ấy họ mới cưới nhau được chưa
đầy một năm, và đây là sự cố đầu tiên của hai vợ chồng. Chị sẽ
khóc lóc vật vã, hay ngất xỉu, hay vẫn bình tĩnh? Anh lo cho con
mắt của mình, nhưng cũng tò mò về phản ứng của vợ không
kém.
Đang chửa đến tháng thứ bảy, Aban Kohlah tỏ ra khá gan dạ.
“Farokh, anh có muốn làm một tí brandy trước không?” Anh
đáp có. Chị cũng tợp một ngụm nhỏ, rồi lái xe đưa anh xuống
bệnh viện dưới thung lũng. Các bác sĩ bảo anh may lắm mới giữ
được mạng – cặp kính anh đeo đã triệt tiêu bớt sức mạnh của
viên đạn thủy tinh, ngăn nó không găm sâu vào não anh.
Nhưng con mắt của anh thì không cách gì cứu nổi nữa.
Anh Kohlah bảo thế cũng chẳng sao. “Một mắt là đủ để nhìn
thứ tôi đang mong được thấy rồi,” anh mỉm cười, đoạn đặt tay
lên cái bụng lùm lùm của vợ. Vả lại, anh tiếp lời, từ nay trở đi,
những thứ xấu xí của thế giới cũng chỉ làm anh khó chịu bằng
một nửa trước kia mà thôi.
Khi hốc mắt đã lành, anh không chịu lắp nhãn cầu thủy tinh.
Miếng bịt mắt trở thành một phần trong trang phục thường
nhật của anh. Anh đeo nó khi làm việc trong cửa hàng, để đến
các cuộc họp mặt, hội hè. Tuy nhiên, trong những cuộc bách bộ
dài trong khu rừng bên sườn đồi buổi chiều tà, miếng bịt mắt lại
được yên vị trong túi, còn anh vừa trầm trồ không biết đến lần
thứ bao nhiêu vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa nhai rau ráu một củ
cà rốt.
Biến cố mất một con mắt đã cho phép anh dung túng sở thích
chén cà rốt của mình. Ý thích này vốn bị chị Kohlah kiềm chế
tới nơi tới chốn, chị bảo cà rốt thì tốt thật, nhưng nghiện món gì
quá cũng là không nên. Nhưng giờ chị đành phải để mặc tình