yêu của anh được thể phát huy tối đa: nước ép cà rốt, xa lát cà
rốt, cà rốt hầm thịt, cà rốt bỏ sẵn trong túi làm bạn đi đường với
anh.
“Anh cần cà rốt,” anh Kohlah quả quyết. “Con mắt còn lại của
anh phải thật khỏe mạnh, nó phải làm việc nặng gấp đôi kia
mà.”
Thằng con trai của anh chị, mỗi lúc một lớn như thổi, sớm
nhận ra niềm đam mê của bố. Mỗi khi bị mắng vì nghịch ngợm,
nó lại lẻn xuống bếp lấy trộm một củ cà rốt và mang đến biếu bố
làm quà dàn hòa, dù có thể sẽ phải nhận một trận quở quang
thứ nhì từ mẹ nó.
Sau tai nạn kia, anh Kohlah càng cẩn trọng hơn khi làm việc
dưới hầm. Anh cấm tiệt mọi người không được lai vãng gần khu
vực này khi những cỗ máy cũ kĩ mệt mỏi kêu lạch xạch và phun
phì phì, rót đầy chai tiếng xèo xèo của món Cola nhà Kohlah và
lấp đầy ngăn kéo tiếng leng keng của những đồng tiền mà cả
nhà rất cần.
Lo cho sự an nguy của anh, các bạn bè của anh tỏ niềm quan
tâm bằng những câu đùa bỡn. “Cẩn thận nhé, Farokh, chui
xuống lòng đất là nguy hiểm lắm đấy. Khai thác Cola cũng rủi ro
chẳng kém gì khai thác than đâu.” Nhưng anh chỉ cười xòa và lờ
tịt những lời bóng gió nọ.
Vứt quách tế nhị, họ bèn gợi ý anh nên nghiêm túc xem xét
việc thay thế các máy móc cổ lỗ đi, và tính chuyện hiện đại hóa
và mở rộng quy mô sản xuất. “Này, Farokh, anh nên suy nghĩ
tỉnh táo một tí,” họ hối thúc. “Chất lượng của Kohlah Cola thật
miễn chê, lẽ ra nó phải được cả nước biết mặt, chứ không nên
chỉ quanh quẩn ở cái xó nhỏ hẹp của bọn ta.”