“Nhiều khi đấy là việc cần làm,” Hạ sĩ Kesar nói, nhưng lão
cũng vẫn nhắc thuộc hạ kiềm chế bớt nhiệt huyết, kẻo ca làm
đêm sẽ bị bôi ra thêm nếu phải dính tới bác sĩ, băng gạc và báo
cáo y tế.
Vẫn giấu mình ở mé trong cửa ra vào của tiệm thuốc, hai
người thợ tự hỏi không biết tình hình hiện ra sao. “Chúng bỏ đi
chưa? Xong chưa?”
“Nghe chừng xong rồi,” ông bảo vệ đáp, và tiếng xe nổ máy
cũng xác nhận điều đó. “Tốt rồi, hai người có thể ngủ lại rồi
đấy.”
Hạ sĩ Kesar và gã Điều phối viên kiểm tra bảng. “Chín mươi
tư,” gã kia nói. “Cần thêm hai đứa nữa mới đủ định mức.”
“Nói thật nhá, lúc nói tám tá, tôi chỉ ước chừng thế thôi. Đủ
một xe tải. Cậu không hiểu à? Làm sao tôi đoán được chính xác
số người chúng tôi sẽ bắt?”
“Nhưng tôi đã báo với người mua là tám tá rồi. Ông ta sẽ nghĩ
tôi lừa ông ấy, không ạ. Ngài không tìm giúp được hai đứa nữa
sao?”
“Thôi được,” Hạ sĩ Kesar đáp giọng chán nản, “thì tìm hai đứa
nữa vậy.” Lão sẽ không bao giờ làm ăn với thằng này nữa. Lúc
nào cũng phàn nàn rên rỉ không biết mỏi mồm, cứ như con chó
phải đòn. Nếu không kẹt tiền trả cho lớp học đàn xi-ta của đứa
con gái, lão sẽ bỏ phắt mấy nhiệm vụ ngoài giờ này ngay tức
khắc mà không cần lăn tăn một giây. Không những lão phải làm
việc với mấy thằng khốn như gã Điều phối viên này; những đêm
đi càn quét khuya còn khiến lão không tài nào trở dậy trước
bình minh để dành một tiếng tập yoga như trước đấy. Chẳng
trách dạo này mình đâm bẳn tính thế, lão ngẫm nghĩ. Mà còn
phải chịu thêm chứng đau dạ dày nữa. Nhưng biết làm thế nào