đến báo cho chúng tôi biết,” Ishvar lặp đi lặp lại một cách máy
móc. “Tôi nhất định sẽ tham dự lễ tang, và Om cũng sẽ đến,
vâng, ngày mai chắc nó sẽ khá hơn.”
Người cháu phải nhắc lại đến bốn lần, họ mới hiểu ra ông trẻ
Ashraf đã được chôn cất. “Đừng lo, hai người có thể ở lại đây cho
đến khi khỏe hẳn,” anh ta nói. “Tôi vẫn chưa quyết định được sẽ
làm gì với căn nhà này. Và nếu hai người cần gì, cứ báo cho tôi
biết.”
Họ đi ngủ luôn mà không ăn uống gì, vì chẳng còn bụng dạ
nào mà ăn. Để khỏi phải leo lên cầu thang, Ishvar trải một tấm
đệm ở tầng trệt bên cạnh quầy. Nửa đêm, Om lên cơn mê sảng,
khua chân múa tay tán loạn. “Không! Cháu không lấy kéo của
ông trẻ Ashraf đâu! Cây ô đâu rồi? Đưa cháu, để cháu cho bọn nó
biết tay!”
Ishvar kinh hoảng choàng dậy và rờ rẫm công tắc đèn. Ông
nhìn thấy một đốm đen sậm trên mặt ga. Ông rửa sạch vết
thương của Om và ngồi chong chong suốt đêm để giữ cậu,
phòng khi miếng gạc bị bung ra.
Đến sáng, ông nửa kéo nửa bế cậu đến một phòng khám tư
trong thị trấn. Vị bác sĩ vô cùng ghê tởm vụ thiến người, nhưng
cũng không ngạc nhiên. Thỉnh thoảng ông vẫn chữa cho các
nạn nhân của bạo lực đẳng cấp đến từ các làng lân cận, và đã
thôi không cố ép luật pháp theo đuổi công cuộc vì công lý nữa.
“Không đủ chứng cứ để khởi kiện” là câu trả lời thường lệ, dù bộ
phận bị mất là một ngón tay hay bàn tay hay mũi hay tai.
“Chú còn may đấy,” ông nói. “Bọn họ đã làm rất sạch sẽ, và
khâu lại cẩn thận. Nếu cậu ta nghỉ ngơi một tuần, nó sẽ lành.”
Ông sát trùng vết thương và đặt một miếng gạc mới lên. “Đừng