bệnh đường họng rất nặng. Chỉ cần lên giọng là tôi sẽ mất tiếng
hẳn luôn.”
“Ôi, thật không may.”
“Không, cũng không hẳn,” ngài Valmik trấn an cô. Ông ta coi
sự đồng cảm chân thành là một món hàng quý giá, và ghét phải
thấy nó bị phung phí. “Không, nó chẳng ảnh hưởng đến tôi một
mảy nào. Ngày nay, người ta đã không còn chuộng những vị
luật sư có thể khiến tiếng nói của mình rổn rảng khắp chốn
pháp đình, thôi miên thẩm phán và bồi thẩm đoàn giữa những
mê cung hùng biện.” Ông bật cười. “Không ai có nhu cầu vời đến
Clarence Darrow nữa – hết sạch các vụ án khỉ Scopes
Mặc dù khỉ thì vẫn còn nhiều lắm, ở phòng xử án nào cũng có,
lúc nào cũng sẵn sàng diễn trò để đổi lấy lạc và chuối.”
Ông thở dài não nề, và giọng mai mỉa của ông bỗng bị nỗi đau
choán chỗ. “Nhưng bọn ta là cái quái gì mà đòi mở miệng, hả cô,
bọn ta là cái quái gì mà đòi nghĩ về hiện trạng của đất nước này?
Khi tòa án cao nhất của cái xứ sở này đã biến tội lỗi của thủ
tướng thành vô tội, thì toàn bộ chốn này” – ông ta khoát tay về
phía tòa nhà đá uy nghi – “nó đã trở thành một viện bảo tàng
của những mánh lừa lọc rẻ tiền, thay vì thứ pháp luật biết sống,
biết thở giúp thổi thêm sức mạnh cho xã hội.”
Xúc động trước sức nặng của nỗi đau trong lòng ông, Dina
hỏi: “Tại sao Tòa án tối cao lại làm thế?”
“Ai mà biết tại sao hả cô. Tại sao lại có bệnh tật, có nạn đói, có
khổ đau? Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi như thế nào, ở đâu,
khi nào thôi. Thủ tướng gian lận trong cuộc bầu cử, và thế là
mọi quy định có liên quan lập tức được sửa đổi. Vậy là bà ta
thành vô tội. Bọn người trần mắt thịt khốn khổ chúng ta đành
phải chấp nhận rằng những chuyện trong quá khứ là nằm ngoài