tầm với của ta, trong khi thủ tướng lại chơi trò tung hứng với
thời gian đã qua.”
Ngài Valmik đột nhiên im bặt, ông nhận ra mình đang huyên
thuyên vớ vẩn trong khi một khách hàng tiềm năng đang ngồi
ngay bên cạnh. “Nhưng vụ án của cô thì sao, thưa cô? Trông cô
có vẻ là người khá thông thạo chốn này.”
“Tôi chưa bao giờ đặt chân đến tòa án.”
“A, vậy thì cô đã sống một cuộc đời may mắn lắm đấy,” ông ta
thì thầm. “Tôi không muốn tọc mạch đâu, nhưng liệu có cần
phải viện đến luật sư không?”
“Có, việc liên quan đến căn hộ của tôi. Rắc rối phát sinh cách
đây mười chín năm, sau ngày chồng tôi qua đời.” Cô kể cho ông
ta mọi chuyện, khởi đầu từ lá thư thông báo đầu tiên của chủ
nhà chỉ vài tháng sau khi Rustom mất vào đúng lễ kỉ niệm ba
năm ngày cưới của hai vợ chồng, và chuyện mấy người thợ may,
người khách trọ, những cuộc quấy rối không ngưng nghỉ của
lão thu tiền nhà, vụ dọa dẫm của bọn đầu gấu, vòng bảo kê của
Ông trùm ăn mày, và cái chết của ông ta.
Ngài Valmik áp đầu các ngón tay lại với nhau thành hình
ngọn tháp và lắng nghe. Ông ta không nhúc nhích lấy một lần,
kể cả để vuốt ve mấy chiếc bút thân yêu cũng không. Cô lấy làm
kinh ngạc bởi ông cẩn trọng để tâm đến vậy – gần như cũng cẩn
trọng như lúc ông nói.
Cô kể xong, ông buông tay xuống. Rồi ông nói bằng giọng nho
nhỏ đã bắt đầu chuyển thành khàn khàn, “Đây là một tình
huống rất gian nan. Cô biết đấy, thưa cô, đôi khi hành động ex
curia thoạt trông có vẻ là chuyện cần kíp.” Trông thấy cô lộ vẻ
bối rối, ông ta đế thêm, “Nghĩa là ngoài vòng tòa án. Nhưng cuối
cùng nó lại làm nảy sinh càng nhiều rắc rối hơn. Đúng, đang có