chính của công ty quá nhiều. Nữ phó chủ tịch đó đã chấp nhận rủi
ro cá nhân lớn bằng cách cắt đứt với văn hóa doanh nghiệp và đã
gióng lên tiếng chuông báo động về thực tiễn này. Vị Giám đốc
điều hành đã đọc bản ghi nhớ chi tiết do nữ phó chủ tịch đó chuẩn
bị và thậm chí đã nói chuyện riêng với cô ta. Sau đó, thay vì xử lý
những thông tin nhận được một cách nghiêm túc tuyệt đối, ông ta lại
giao chúng cho hãng luật của công ty và yêu cầu họ điều tra vấn
đề này, nhưng không phải để thực hiện một “phân tích chi tiết”
hoặc đánh giá các kế toán bên ngoài công ty, mà để chấm dứt thực
sự cuộc điều tra này. Không bao lâu sau, công ty này sụp đổ; các nhà
đầu tư gần như mất trắng; hàng nghìn nhân viên bị mất hầu
hết khoản tiền hưu trí; và vị Giám đốc điều hành đó cùng các cựu
lãnh đạo khác, các kế toán cấp trung, những người đã có hành động
nghiệp vụ gian lận, đều bị buộc tội hình sự. Vị Chủ tịch kiêm Giám
đốc điều hành đã chết trước khi bị kết án. Người kế nhiệm ông,
nhà thiết kế chính của vụ gian lận, bị kết án 24 năm tù giam. Giá
như vị Giám đốc điều hành đó biết lắng nghe người thừa hành
can đảm của mình và xem xét mối quan ngại của cô ấy một cách
nghiêm túc, có thể ông ta đã lái con tàu doanh nghiệp, bất chấp
tình trạng tha hóa đạo đức trước đây của nó, cập bến an toàn thay vì
bị phá sản và rước họa vào thân như vậy.
Trong vụ bê bối ấu dâm
(1)
làm rung chuyển Giáo hội Công giáo
Mỹ, những người Công giáo và cả công chúng nói chung đều đã nghe
nói về nhiều nỗ lực đưa vấn đề này lên tổng giám mục của nhà
thờ để giải quyết. Những linh mục không thuộc giới tăng lữ, những
linh mục riêng lẻ và các nhà báo Công giáo trong suốt hàng chục
năm đã cố gắng truyền đạt mức độ nghiêm trọng của vấn đề
này. Thay vì đáp lại những nỗ lực can đảm và trung thành đó bằng
lòng can đảm của riêng mình, các tổng giám mục nhà thờ đều luôn
cố che giấu vấn đề này, cho phép những người lạm dụng tiếp tục
làm tổn hại giới trẻ, và cản trở những người nêu lên vấn đề. Bên