trong mỗi chúng ta có hai năng lực chỉ huy song hành, một nam,
một nữ; và trong trí óc người đàn ông, đàn ông chiếm ưu thế hơn
đàn bà, trong trí óc người đàn bà, đàn bà chiếm ưu thế hơn đàn ông.
Khi cả hai chung sống với sự hòa đồng, trong tinh thần hợp tác, thì
trạng thái của hiện hữu là trạng thái bình thường và thoải mái. Nếu
là đàn ông thì phần đàn bà trong trí óc ông ta phải có hiệu ứng; và
ngược lại, người đàn bà cũng phải giao hòa với phần đàn ông trong
trí óc mình. Có lẽ, Coleridge
muốn nói như thế khi ông nói khối
óc vĩ đại là khối óc lưỡng tính. Đó là lúc sự hợp nhất xảy ra và trí óc
trở nên phong phú, tận dụng tất cả khả năng của nó. Tôi nghĩ có lẽ
trí óc thuần nam sẽ không đủ khả năng sáng tạo và trí óc thuần nữ
cũng thế. Nhưng nam - nữ tính hoặc ngược lại nữ - nam tính nghĩa
là gì? Hãy đem chúng ra kiểm nghiệm bằng cách ngưng lại và tìm
đọc vài ba cuốn sách.
Khi phát biểu khối óc vĩ đại là khối óc lưỡng tính, Coleridge chắc
chắn không ngụ ý đó là khối óc có thiện cảm với phái nữ; hoặc khối
óc bênh vực cho nữ quyền; hoặc khối óc chuyên chú vào việc lí giải,
xét đoán phụ nữ. Có lẽ, khối óc lưỡng tính không đủ điều kiện thực
hiện những công việc phi phàm này so với khối óc đơn tính. Có thể,
ông muốn nói khối óc lưỡng tính thì vang dội và dễ thẩm thấu; nó
dễ truyền đạt cảm xúc mà không gặp trở ngại nào; nó sẵn tính sáng
tạo tự nhiên; nó sáng tỏ và không vẹn toàn. Thật vậy, người ta có thể
quay lại Shakespeare để biết thế nào là khối óc lưỡng tính, khối óc
nam - nữ tính, dù không ai biết ông nghĩ gì về đàn bà. Nếu quả thực
là một trong những dấu hiệu cho biết khối óc nảy nở toàn vẹn là
trong quá trình suy tưởng nó không đặc biệt ngả về giới phái nào thì
bây giờ vẫn là lúc khó khăn hơn bao giờ hết cho người ta đạt đến
tình trạng này. Chỗ này, tôi mở những trang sách viết bởi các tác giả
đương thời, chỗ kia, tôi ngưng lại và phân vân tự hỏi phải chăng sự
kiện này chính là căn nguyên khiến tôi điên đầu bấy lâu nay. Không
thời đại nào vấn đề ý thức giới phái lại ồn ào như thời của chúng ta;
hằng hà sa số sách vở nằm trên kệ trong Viện Bảo tàng Anh quốc của