ấy năm tháng lao động trên nóc tòa giáo đường, về những ông
hoàng bà chúa, những tay quý tộc vác từng bao vàng, bao bạc trên
lưng mà họ xúc đất để đồ xuống; rồi sau đó, những tay tài phiệt lớn
của thời đại chúng ta đến đặt xuống chi phiếu và trái phiếu ngay nơi
mà tôi đồ rằng những người khác trước họ đặt xuống không biết bao
nhiêu nén bạc, thỏi vàng. Tất cả những thứ đó nằm dưới chân ngôi
trường đại học dưới kia, tôi bảo bạn tôi thế; nhưng tại ngôi trường
này, nơi chúng ta đang ngồi, cái gì nằm dưới chân bức tường gạch
đỏ uy nghi và đám cỏ hoang xơ xác trong vườn? Có sức mạnh gì ẩn
chứa đằng sau những bát đĩa sứ đơn sơ thô lậu mà chúng ta không
thể phủ nhận, và (đến đây tôi buột miệng nói trước khi biết mình
hớ) đằng sau thịt bò, bánh sữa và mận khô?
Ừ, Mary Seton lên tiếng, vào quãng năm 1860 - Ồ, nhưng mà chị
biết chuyện đó rồi, cô bảo tôi, tôi kể ra đây lần nữa thì chán chết
được. Nhưng rồi cô vẫn kể. Đi thuê phòng. Ủy ban họp hành liên
miên. Viết địa chỉ lên phong bì. Rồi soạn thảo thông tri. Rồi lại họp
hành; lại đọc thư; ai cũng hứa hẹn đủ điều; nhưng sự thật thì ông -
một xu cũng không cho. Tờ Thứ bảy điểm báo còn có những bài báo
với lời lẽ hết sức thô lỗ. Cách nào cho chúng tôi quyên tiền để trang
trải các phí tổn của nhà trường? Hay chúng tôi sẽ phải đứng bán
hàng từ thiện? Phải chăng chúng tôi không tìm được cô gái đẹp nào
để ngồi nơi hàng ghế đầu? Hãy đọc lại những gì John Stuart Mill
viết về vấn đề này. Có ai thuyết phục được biên tập viên của báo - in
cho chúng tôi lá thư không? Chúng tôi có thể lấy chữ kí của Lady
không? Lady - đã đi khỏi thành phố. Sáu mươi năm trước, tôi đồ
rằng chuyện diễn tiến như thế, và công sức mọi người đổ ra không
biết bao nhiêu mà kể, tốn không biết bao nhiêu thì giờ liên hệ trong
chuyện này. Và sau thời gian dài vất vả cộng với những khó khăn
cùng cực, họ quyên được tổng cộng ba mươi nghìn bảng
. Bởi thế,
hiển nhiên trên bàn chúng tôi không có rượu và chim đa da, cũng
chẳng có kẻ hầu người hạ đội trên đầu cái dĩa thiếc, cô nói tiếp.