đồng tiền do chính tay họ làm ra. Chỉ bốn mươi tám năm vừa qua,
bà Seton mới có quyền giữ một xu trong túi tiền của chính mình. Ở
những thế kỷ trước, tiền bà làm ra là tài sản của người chồng - và có
lẽ lí do này đã khiến bà Seton và những bà mẹ của bà chẳng hề bén
mảng đến sàn giao dịch thị trường chứng khoán bao giờ. Họ có thể
thốt lên rằng mỗi đồng xu tôi làm ra đều bị lấy đi và do chồng tôi
định đoạt việc tùy nghi tiêu dùng - có lẽ để thành lập học bổng hoặc
tài trợ chương trình giáo dục nào đó cho Trường Balliol hay Trường
King, bởi thế, chuyện kiếm tiền, ngay cả nếu tôi có khả năng làm
điều đó, chẳng phải là vấn đề khiến tôi bận tâm. Tốt hơn là tôi để
việc đó cho chồng tôi làm.
Dù sao đi nữa, dù bà lão trong ảnh đang nhìn con chó xù là người
đáng khiển trách hay không, điều chắc chắn, không nghi ngờ chút
nào, là bởi lí do nào đó các bà mẹ chúng tôi đã vô cùng vụng về
trong việc quản lí tiền nong… Một xu cũng không có dành cho các
“tiện nghi”; cho rượu và chim đa đa; cho thảm cỏ và giám thị; cho
sách vở và xì gà; cho thư viện và những cuộc vui. Dù cố gắng đến
cùng cực, họ chỉ có thể dựng lên những bức tường trơ trụi từ đất
đen.
Cứ thế, chúng tôi đứng trò chuyện nơi cửa sổ, mắt nhìn xuống,
như hàng nghìn hàng vạn người nhìn mỗi đêm, những mái tròn và
tháp cao của cái thành phố danh tiếng dưới kia. Cảnh tượng thật đẹp
dẽ, vô cùng bí ẩn trong đêm thu trăng sáng. Bức tường đá cổ toát ra
màu sáng trắng và vẻ đường bệ. Người ta có thể nghĩ về không biết
bao nhiêu sách vở tích luỹ dưới đấy; và chân dung những giám mục,
chức sắc treo trên tường; cửa kính sơn màu chiếu xuống mặt đường
những hình tròn và hình lưỡi liềm lạ mắt; bia đá khắc những câu
tưởng nhớ, ghi ơn, đề tặng; bồn phun nước trên thảm cỏ xanh;
những gian phòng yên ắng trông ra khoảng sân tứ giác cũng yên
ắng. Và (cho tôi xin lỗi ở đây) tôi cũng không quên nghĩ nốt về cái
ghế bành êm ái trong gian phòng trải thảm đẹp mắt, cùng điếu
thuốc và li rượu ngọt lịm: những thứ thanh lịch, phong nhã, sang