liễu đời mình hoặc cô độc sống nốt quãng đời còn lại trong túp lều
bên ngoài thôn làng, nửa phù thủy, nửa pháp sư và bị người đời sợ
hãi, nhạo báng. Vì người ta không cần nhiều kiến thức tâm lí học để
biết chắc một cô gái thiên tư hơn người cố tận dụng tài năng của
mình để làm thơ thì đương nhiên sẽ bị kẻ khác tìm cách ngăn trở và
phá hại, tâm tư cô sẽ bị hành hạ và xé rời từng mảnh bởi chính
những bản năng đầy mâu thuẫn của mình, đến nỗi chắc chắn là thân
xác cô trở nên tàn tạ và đầu óc cô mất sự tỉnh táo. Không người con
gái nào có thể đứng trước cửa sân khấu kịch ở London, chen vào tìm
gặp người diễn viên, kiêm quản lí sân khấu mà không tự chuốc vào
người những đau khổ, phiền não ghê gớm, nỗi khổ đó dù có thể phi
lí - bởi sự trinh bạch là linh vật do xã hội đặt ra không cần viện vào lí
do xác đáng nào - nhưng vẫn không sao tránh khỏi. Sự trinh bạch
vào thời đó, và ngay cả thời bây giờ, trong cuộc đời người đàn bà, có
vai trò quan trọng của tôn giáo, họ phải dùng ý chí và bản năng để
trói nó lại, nên cắt đứt dây trói, thả tự do cho nó nhìn thấy ánh sáng
ban ngày là việc làm đòi hỏi lòng can đảm vô biên. Người đàn bà
sinh vào thế kỷ XVI ở London, sống cuộc sống tự do không bị trói
buộc, như một nữ sĩ, một kịch gia, có nghĩa là sống trong tình trạng
căng thẳng thần kinh và tiến thoái lưỡng nan, một tình trạng có thể
dẫn đến cái chết. Giả sử bà không chết, nhưng ngay cả thế những gì
bà viết cũng sẽ bị bóp méo và biến dạng, kết quả của những trí
tưởng tượng lệch lạc và bệnh hoạn. Hiển nhiên, tôi nghĩ trong lúc
nhìn lên kệ sách nơi tôi chẳng thấy vở kịch nào của nữ tác giả,
những tác phẩm của bà không có chữ kí. Đó phải là nơi trú ẩn bà tìm
kiếm. Chính vết tích cay nghiệt của ý thức về sự trinh bạch này
khiến đàn bà ở ngay thế kỷ XIX vừa qua vẫn phải ẩn danh khi viết
văn. Currer Bell
, George Eliot, George Sand
, những nạn nhân
của cuộc xung đột bên trong như tác phẩm họ chứng tỏ, đều thất bại
trong việc che giấu bản thân mình bằng cách lấy tên nam giới làm
bút danh. Làm thế, họ chỉ tôn cao thêm cái quy ước đàn bà nổi tiếng
thì đáng khinh, một quy ước nếu không do giới phái kia đặt ra thì
cũng được họ khuyến khích hỗ trợ (Pericles