thành thủ lĩnh. Riêng Sơn Tây có hơn một chục. Phú Thọ, Yên Bái gần hai
chục người. Có người xuất thân từ lái đò như Đốc Ngữ. Có người là hào
mục như Quản Gụ, Tổng Bùng. Có người là dân thường như Tư So, Tư
Khàn... Chỉ tiếc là mình thiếu súng đạn phân phát cho họ đánh giặc.
Lặng lẽ hồi lâu truớc cảnh lực bất tòng tâm của mình, ông lại hỏi Đề
Hoan:
- Ông có phán đoán gì về kẻ địch đối với bản doanh ta sắp tới?
- Thưa... đã hơn tháng nay, địch cho thám tử đến các vùng bản Mèo,
bản Thái dò xét. Mấy kẻ lang thang đi bán dầu, muối, dao, cuốc ấy, dò dỏm
ít lâu lại về Bình Lư, Lào Cai... Xem ra chúng vẫn có ý nhằm nhò bản
doanh ta. Chúng tôi cũng cho thám tử đi dò xét. Những nơi hiểm yếu đều
có đặt quân, đón đánh địch từ xa đến, và cả khi chúng rút.
Quang Bích vuốt chòm râu dài tỏ ý hài lòng. Ông nêu câu hỏi:
- Còn phía đèo Ách? Kẻ địch vượt đèo sang đây không xa.
- Thưa... chúng tôi đã cho thám tử sang bên kia đèo. Chưa thấy đich có
dấu hiệu muốn vượt đèo. Cái đèo ấy đỉnh rất cao, hai bên khá dốc. Từ chân
đèo leo lên đỉnh gần hết nửa ngày. Hai bên dốc, cây cỏ rậm rạp; quân ta
phục kích khi địch leo đèo thì rất có lợi. Địch không dại gì mà dấn thân vào
con đường chết ấy. Tuy vậy, tôi vẫn bàn với ông Đề Kiều trấn giữ đồn đèo
Ách. Phải luôn luôn tuần tra, thám sát bên kia đèo, kịp thời đối phó từ đầu...
Quang Bích đã từng leo qua đèo Ách. Ông cũng tin là địch không mạo
hiểm kéo quân qua đèo dưới mũi súng của quân ta. Nhưng ông vẫn căn
dặn:
- Phải cho thám tử dò xét đều đặn từ bên kia đèo!