Một lúc sau, ngài hé mắt nhìn Đề Hoan và lão bộc, rồi nhìn cái tráp
đặt bên mình, như muốn nói: "Những của quý còn lại ở đây".
Thế rồi ngài buông xuôi hai tay. Lúc ấy là giờ Mão, ngày Rằm, tháng
Chạp, năm Canh Dần (5-1-1891).
Các quan viên có mặt tại bản doanh, cùng mười người lính thân vệ
chứng kiến việc mở cái tráp của quan Đại. Kiểm kê di sản thấy còn nguyên
vẹn 150 đồng tiền vàng, phần thưởng tướng sĩ do vị Nguyên nhung quân
Cần Vương từ nước ngoài gửi về. Một phong bì đựng sắc chỉ của vua Hàm
Nghi và thư từ của Tôn Thất Thuyết. Một thanh đoản kiếm hộ thân. Một
tập sách nhỏ ghi công vụ và một tập di cảo thơ văn... toàn bộ di sản của vị
Khâm sai Đại thần sung Hiệp thống quân vụ Bắc Kỳ chỉ còn có vậy.
Đốc Ngữ cũng vừa kịp từ căn cứ Khả Cửu về đại bản doanh cùng Đề
Hoan, Đề Kiều lo liệu lễ tang cho quan Đại. Khuôn theo cảnh nghèo khó ở
núi rừng nhưng tôn nghiêm trang trọng. Không kịp báo cho gia đình, vợ
con, anh em ngài tới. Đề Kiều, Đề Hoan, Đề Doãn và lão bộc mặc áo tang,
thay nhau túc trực bên linh cữu ngài. Trên linh sàng khói hương lan tỏa, đĩa
dầu nam leo lét ngọn đèn. Bài vị của ngài ghi dòng chữ chân phương:
"Hiển khảo, tiền Nguyễn triều Hiệp biện đại học sĩ, Lễ bộ Thượng Thư,
Thuần trung tướng, sung Hiệp thống quân vụ, Khâm sai Đại thần toàn Bắc
Kỳ, chi linh".
Đề Kiều quỳ đọc văn tế, giọng lâm ly thống thiết, vừa khóc vừa đọc,
xúc động can tràng:
Nhớ Ngài xưa,
Phất cờ đầu khởi nghĩa Cần Vương, từ Tây Bắc xuống Trung Châu,
lập bao trận tuyến,
Nêu gương sáng kiên trung cứu nước, hô Đề, Lãnh, gọi dân binh, tới
mọi chiến trường,