phách vào những chiếc cốc, xung quanh là âm thanh huyên náo điếc tai và
màn khói cứ dày thêm vào đêm, làm nhòa đi ánh sáng của những chiếc đèn
tường vốn đã mờ ảo.
Nhưng trái tim chúng tôi không đặt ở đó, đôi mắt John phản chiếu mối ưu
tư chung của chúng tôi.
“James, cậu có nghĩ là Elizabeth sẽ làm được gì không? Chỉ cần cậu nói
một câu.”
Lời đề nghị hẳn là rất khó khăn này đã thế hiện tinh thần hào hiệp của
John Darnley. Cậu ta phải lòng Elizabeth, tôi biết, nhưng lại nhờ tôi mang
hai người họ đến gần nhau hơn.
Tôi lắc đầu, không tán đồng.
“Cái cô Elizabeth mà đánh rơi chiếc mũ cũng khóc ra cả chậu nước mắt
ấy hả? Không phải ý kiến hay đâu, con bé chỉ khiến Henry khổ sở thêm thôi.
Những người con bé thử an ủi rốt cuộc đều khóc nhiều hơn.”
Cân nhắc một lát, tôi tiếp tục nói với giọng tự tin. “Henry sẽ vượt qua
được, chỉ là vấn đề thời gian. Thời gian chữa lành mọi vết thương, nếu
không con người đã chẳng tồn tại được.”
Tôi bất chợt dừng lại, thất kinh trước sự vụng về của mình.
“Thời gian chữa lành mọi vết thương,” John lơ đãng nói, ánh mắt xa xăm.
“Dù sao thì... cũng chỉ phần nào. Nên nói rằng, thời gian giúp cho những vết
thương có cơ hội liền sẹo.”
Tôi nên đá cho mình một cái vì nói mấy câu quá ngớ ngẩn. Nhưng chuyện
tệ hại đã xảy ra rồi, và John bắt đầu nhớ lại cái đêm kinh hoàng ấy.
“Tôi đang chơi với Billy thì cha đến tìm, lo lắng ra mặt. Cha nói rằng mẹ
đã mất tích. Chúng tôi quay trở về nhà nhưng không thấy mẹ đâu. Hai cha
con lục lạo khắp nơi rồi cha đi lên tầng. Nghe thấy một tiếng kêu khác với
mọi tiếng kêu từng nghe, tôi liền lao lên theo, lên đến tầng cao nhất. Cánh
cửa cuối cùng, cánh cửa thứ tư, đang mở và có ánh sáng hắt ra. Tôi chạy tới,
thấy cha đang quỳ bên xác mẹ, trên sàn nhà.”
“Thứ lỗi cho tôi, John,” tôi thì thào. “Nhưng...”
John tiếp tục, như thể không nghe thấy.