đầu nghĩ rằng có một tên cuồng sát trong làng, vì anh dần dần tin là thực ra
mẹ bị sát hại.”
“Đủ rồi, John,” Elizabeth rên rỉ. “Đừng nhắc đến vụ án nữa. Thế mà anh
định để em sống trong ngôi nhà đó kia đấy! Nhưng tại sao lại có kẻ muốn sát
hại mẹ anh? Và tại sao Henry lại bị giết?”
“Có lẽ Henry biết ai giết mẹ của cậu, John à,” tôi gợi ý.
“Nếu thế thì,” John ngờ vực nhìn tôi. “Cậu ấy đã bị giết lâu rồi.”
“Chính xác.”
Một khoảng lặng.
“Báo chí tới tấp chạy bài về vụ ám sát nhưng lại giữ kín những tình tiết
bất thường,” Elizabeth nhận xét, rõ ràng là thạo tin.
“Hiển nhiên,” tôi thở dài. “Cảnh sát không muốn công khai một vụ án mà
họ không biết phải giải quyết thế nào. Dạo gần đây họ thường xuyên bị đặt
dấu hỏi về năng lực.”
John gật đầu, rồi đột ngột nói, “Cậu nghĩ sao về giả thuyết của thanh tra
Drew?”
“Henry đóng cửa sổ trước khi chết? Quá nực cười. Hoàn toàn vô lí.”
“Em tin,” Elizabeth xen vào với giọng quả quyết. Khó chịu trước sự im
lặng của chúng tôi, em cao giọng. “Em biết quá rõ tính kiêu căng tự phụ ngu
ngốc của Henry, em có thể dễ dàng tưởng tượng ra việc anh ấy giở mánh
khóe một lần cuối cùng. Anh ấy muốn một kết thúc hoàn mỹ, một cái chết
xứng đáng với danh tiếng mà anh ấy nghĩ mình luôn có. Theo quan điểm của
em, thanh tra Drew nói đúng. Ông ẩy đã thực sự nắm bắt được con người
của Henry. Rốt cuộc, chẳng phải tự dưng người ta lại gọi ông ấy là Nhà tâm
lí học.”
Tôi đã định đáp trả, nhưng khi thấy John đặt một ngón tay lên môi, tôi
ngăn mình lại.
“Họ đã kiểm tra bằng chứng ngoại phạm của các đối tượng tình nghi
chưa?” cậu ta hỏi. “Đó, ừm, ý tôi là những người mà…”
Elizabeth không cho tôi thời gian để trả lời.
“Chỉ có một người không có bằng chứng ngoại phạm!’
Hai chúng tôi yên lặng, đăm đăm nhìn em một lúc lâu.