hữu những đặc điểm ngoại hình giống hệt nhau. Ôi, để con nói cho cha biết,
bọn con đã làm khán giả xúc động mạnh với những màn ảo thuật thoát hiểm
kì diệu. Bọn con tùy ý xuất hiện và biến mất, trong khi khán giả nghĩ bọn
con chỉ là một người. Và giờ, Bob đã không còn.”
Một sự yên lặng chết chóc.
Arthur, cho đến lúc đó vẫn giữ được bình tĩnh, đột ngột bật khóc.
“Bob Farr không còn nữa,” Drew khẽ khàng nhắc lại, ánh mắt chăm chú
nhìn những dòng khói thuốc ông vừa nhả ra đang lập lờ bay lên trần nhà.
“Chàng trai, cậu có thể nói cho chúng tôi biết cộng sự của cậu viếng thăm
hàng xóm nhà cậu vào buổi tối hôm kia để làm gì không?”
“Không,” Henry trả lời. “Tôi không thể nói vội ông bất cứ điều gì. Không
phải lúc này.”
“Không phải lúc này,” Drew lặp lại, nở nụ cười tà ác, nhìn chằm chằm
vào đầu thuốc đang cháy sáng của mình. “Tốt thôi, tốt thôi. Cậu có tình cờ
biết được anh ta có kẻ thù nào không? Đừng quên là anh ta đã bị sát hại.”
Henry lắc đầu.
“Tốt lắm, tốt lắm,” Drew tiếp tục. “Nhân đây, cậu có biết về chi tiết kì lạ
trong cái chết của người cộng sự này không?”*
“Tôi đã đọc báo. Người ta tìm thấy anh ấy bị đâm chết trên tầng áp mái.”
“Đúng thế,” Drew đồng tình. “Đó đúng là nội dung đăng báo, nhưng họ
đã lược bớt một số chi tiết nhỏ mà tôi sẽ nói với cậu sau đây. Nhân thể, cậu
đi Mỹ về được bao lâu lồi?”
“Tôi mới đặt chân lên đất Anh vài giờ trước. Tôi bắt chuyến tàu đầu tiên
về Oxford, và đi taxi về đây.”
“Tốt. Rất tốt, rất tốt. Hoàn hảo.” Drew lôi một cuốn sổ tay ra khỏi túi và
ghi chép gì đó. “Tôi sẽ không nhờ cha cậu hồi tưởng các sự kiện của buổi tối
bi kịch đó, cũng không nhờ bạn cậu, người có vẻ không định kể một câu
chuyện cho mạch lạc. Vì thế tôi sẽ tự mình nói cho cậu biết.”
Nói xong, ông chánh thanh tra yêu cầu:
“Cậu nghĩ sao, chàng trai? Là chuyên gia về những trò ảo thuật, cậu có
thể đưa cho chúng tôi vài lời khuyên về vấn đề này không? Hay có lẽ giúp
chúng tôi khám phá ra âm mưu xảo trá của tên sát nhân?”