II
Chú Hai ở với gia đình tôi thấm thoát đã ba tháng. Chú tỏ ý sung sướng
được sống ấm áp giữa chúng tôi.
Buồng của chú trên gác, phía trước trông ra bến đò Rừng rộng hút tầm
mắt, phía sau ngoảnh ra núi. Chú thích căn buồng ấy lắm. Có một khuôn
cửa sổ vỡ kính, một hôm mẹ sai chị Châu lên căng tấm vải che tạm. Chú
ngăn lại, bảo:
- Không cần che kín, cháu ạ. Lúc nào chú cũng muốn được trông ra
ngoài trời. Ngoài cửa sổ đã có một cây nhãn, cành lá um tùm đủ làm một
tấm màn đẹp.
Chú chu đáo quá, lại xin đỡ thày mẹ tôi tiền cơm hàng tháng. Thày mẹ
tôi từ chối thế nào chú cũng không nghe. Chú hay hoạt động, sáng dậy giúp
lão Bồng buộc bờ rào, đào sắn, hoặc giúp mẹ tôi và chị Châu hái lá dâu,
chăn cho tằm ăn. Tối, chú đỡ thày làm sổ sách, có khi đến khuya. Chú giỏi
chữ Tây, giỏi kế toán. Vào những đêm thức khuya, mẹ và chị Châu ngồi
quay tơ, ngay từ chập tối mẹ không quên nấu một nồi cháo gà, cả nhà ăn
uống, chuyện trò vui vẻ.
Một điều khiến mọi người lưu ý là sáng nào chú cũng ra một chỗ vắng vẻ
nơi bãi sông đứng. Chú bảo tôi rằng chú yêu những cánh buồm và thích để
cho sóng cuốn giạt vào bàn chân. Ở bãi sông về, chú lên gác, đóng chặt cửa
lại. Mùi khói thuốc lá ở cái tẩu đen bóng lọt qua khe cửa, bay ra ngoài. Thì
ra chú ngồi trong đó để hút thuốc lá, ngả người ra lưng ghế, mắt đăm đăm
nhìn ra ngoài núi hàng giờ không nhúc nhích. Thực là một người kỳ dị. Mẹ,
một lần nói nhỏ với chúng tôi:
- Tội nghiệp, chú ấy vẫn chưa nguôi được nỗi buồn. Thày kể rằng trước
kia chú giàu có, thím mất đi, chú ở với một đứa con trai. Đứa con trai đã
mười ba tuổi, tên là Lê. Hai cha con quý nhau như vàng. Một hôm chú đi