lên một vùng mạn ngược săn, cho cả em Lê theo. Chú bắn chẳng mấy khi
trúng được lấy một con thú. Các bạn vẫn chế giễu. Hôm ấy hai cha con và
mấy người bạn vào rừng. Người nào lúc ra về cũng xách một xâu chim bắn
được. Duy chú Hai là về tay không. Chú bắn vụng, lại vốn tính nóng nảy, bị
người ta chế thì nổi hung lên, cứ lắp đạn, giơ súng bắn liều vang cả rừng
mà vẫn không có con chim nào chết. Các bạn càng cười đùa, chú càng bắn
như một người điên, lá rụng xuống tới tấp. Trong lúc ấy, em Lê lẩn đi một
chỗ, thấy một cái cây có tổ chim, trèo lên xem. Lê đứng trên cành, nấp
trong khóm lá rậm. Một phát đạn của bố vô tình bắn lên,em Lê chỉ kịp kêu
một tiếng, lăn xuống cỏ chết ngay…
Mẹ tôi ngừng lại, nín lặng một lúc.
Chị Châu và tôi nghe chuyện mà rùng mình. Mẹ tôi nói tiếp:
- Nhờ có các bạn làm chứng, tòa xử là vô ý giết người, nên bị hai năm tù
án treo. Từ đấy, chú chỉ đi ngao du, lúc nào cũng có ý hối hận, ăn năn tội
lỗi. Các con coi, chỉ vì cái tính nóng nảy, điên khùng mà kết quả thảm
thương như thế đó.
Lòng thương yêu của chúng tôi đối với chú, khi biết chuyện rồi càng
tăng lên. Tôi thấy từ nay tôi cần phải âu yếm chú, quấn quít chú để chú vui
mà tưởng rằng giữa chú với tôi có một cái tình cha con, cái tình mà chú đã
tự mình làm mất vì một cơn tức giận vô nghĩa lý.
Tôi hết sức làm cho chú vui, chú cười. Vốn chú vui tính, nên dễ bị lây
cái vui nghịch của tôi. Chú đánh bi với tôi. Chú chơi quay với tôi. Chú
cùng tôi chiều chiều ra ngoài sườn núi chăn dê và ra bãi sông thả diều. Một
trẻ, một già như đôi bạn. Thầy mẹ tôi cũng phải bật cười, lấy làm mừng vì
thấy chú không mấy khi lầm lì và không mấy khi ra bãi sông đứng một
mình nữa. Duy cái thói quen buổi trưa nào cũng lên gác đóng chặt cửa
buồng ngồi hàng giờ trong đó thì chú không chịu bỏ.