Khi thức dậy, tôi biết chắc rằng nhiệm vụ của mình là đưa cô gái quay lại
Chipenden. Có vẻ như đấy là chuyện đúng đắn nên làm. Là chuyện an toàn.
Cảm giác như đấy là nghĩa vụ. Khi tôi đưa cho Mẹ Malkin mấy chiếc bánh,
tôi đã để cho phần con tim mềm yếu của tôi thống trị mình. Và hãy nhìn
xem điều ấy đã mang lại cho tôi những gì nào. Cho nên tốt hơn là đối phó
với Alice ngay lúc này, trước khi đã quá muộn. Như Thầy Trừ Tà nói, ta
phải nghĩ đến những người vô tội trong tương lai có thể bị hãm hại nữa.
Ngày đầu chuyến đi chúng tôi không nói chuyện với nhau nhiều. Tôi chỉ
bảo với Alice là chúng tôi quay trở về Chipenden để gặp Thầy Trừ Tà. Nếu
Alice mà biết chuyện gì sắp xảy đến với mình, cô ấy chắc không phàn nàn
gì. Thế rồi sang ngày thứ hai, khi chúng tôi tiến gần đến làng hơn và thực
chất là đang trên những sườn đồi dưới chân rặng núi đá, cách nhà Thầy Trừ
Tà khoảng một dặm, tôi nói cho Alice nghe về những gì tôi mãi chôn chặt
trong lòng mình; về những gì đã khiến tôi lo ngại kể từ khi tôi phát hiện ra
những chiếc bánh ấy chứa thứ gì.
Chúng tôi đang ngồi bên bờ sông ngập cỏ gần phía con đường. Mặt trời
đã lặn và ánh sáng ban ngày bắt đầu lịm dần.
“Alice này, có khi nào cậu nói dối chưa?” tôi hỏi.
“Con người ta đôi khi phải nói dối chứ,”Alice trả lời. “Nếu không nói dối
thì không phải con người đâu. Nhưng đa phần là tớ nói thật không thôi.”
“Thế còn trong cái đêm tớ bị mắc bẫy dưới cái hố ấy thì sao? Khi tớ hỏi
cậu về mấy chiếc bánh ấy. Cậu bảo chẳng có đứa trẻ nào khác trong nhà
Lizzie cả. Có thật không?”
“Tớ không thấy đứa nào hết.”
“Đứa bé đầu tiên bị lạc mất còn bé như trẻ sơ sinh vậy. Nó chẳng thể nào
tự mình lang thang đi đâu được cả. Cậu chắc chứ?”
Alice gật gật và cúi đầu, nhìn chăm chăm xuống cỏ.
“Thế chắc là nó bị đám chó sói lôi đi rồi,” tôi bảo. “Dân trong làng cho là
vậy đấy.”