“À, là những gì trước đây ta đã bảo con rồi. Con không lắng nghe sao?
Con cần phải tỉnh táo, không được lan man mơ màng. Mà thôi, cũng chẳng
phải gì khó khăn lắm,” thầy giảng giải, tay gãi gãi chòm râu như là có con gì
đang bò trong ấy. “Con chỉ cần phải ở đây một mình qua đêm nay. Ta đưa tất
cả những tay học việc mới đến ngôi nhà cũ kỹ này trong đêm đầu tiên để ta
có thể nhìn ra mấy đứa gan đến cỡ nào. Ồ, mà có một điều ta chưa bảo cho
con. Đến nửa đêm ta muốn con đi xuống hầm rượu để đối mặt với một thứ
đang lẩn khuất dưới đấy. Qua được việc này thì con đã gần đạt đích được
nhận vào làm lâu dài rồi đấy. Có câu gì hỏi không?”
Hỏi thì tôi có cả đống để hỏi nhưng tôi sợ phải nghe lấy câu trả lời quá đi
mất. Vậy nên tôi chỉ lắc đầu và cố giữ cho môi trên không run run.
“Làm sao con biết khi nào là nửa đêm?” thầy hỏi.
Tôi nhún vai. Đoán thời gian căn cứ vào vị trí của mặt trời và sao thì tôi
khá lắm, và thậm chí nếu phải làm việc lúc nửa đêm, hầu như tôi luôn luôn
biết chính xác lúc ấy là mấy giờ, nhưng ở đây tôi lại không chắc lắm. Ở một
vài nơi thời gian dường như trôi đi chạm chạp hơn và tôi có cảm giác rằng
chỗ này là một trong những nơi ấy.
Đột nhiên tôi nhớ đến đồng hồ nhà thờ. “Chuông vừa đổ bảy tiếng,” tôi
nói. “Con sẽ chỉ cần nghe thấy mười hai tiếng chuông là biết ngay ấy mà.”
“Chà, ít ra thì bây giờ con tỉnh táo rồi đây,” Thầy vừa nói vừa thoáng
cười. “Khi chuông đổ mười hai tiếng, cầm lấy mẩu nến và dùng nó để tìm
đường đi xuống hầm rượu. Từ đây cho đến lúc đó, hãy ngủ đi nếu con có
thể. Giờ nghe cho rõ đây – có ba điều quan trọng phải nhớ. Đừng mở cửa
trước cho bất cứ ai, mặc cho họ có gõ cửa mạnh đến đâu đi nữa, và đừng có
xuống hầm rượu trễ đấy.”
Thầy dợm bước đi ra cửa.
“Thế còn điều thứ ba là gì ạ?” Đến giây cuối cùng tôi mới hỏi với ra.
“Cây nến đấy, anh bạn. Dù con có làm gì, cũng đừng để nến tắt...”
Đoạn thầy đi mất, cửa đóng lại sau lưng thầy, và tôi chỉ còn lại một mình.
Tôi cẩn thận bưng cây nến lên, bước đến cửa phòng bếp và thò đầu vào