nhiên trở nên lạnh lẽo hơn. Điều này nhắc tôi nhớ đến cuộc viếng thăm nhà
bếp. Trong phần rừng này có điều gì đó lạ lùng và nguy hiểm, và dường như
điều ấy đang mỗi lúc mỗi dần dà lạnh hơn khi chúng tôi tiến sâu vào rừng
cây.
Cao cao bên trên đầu thầy trò tôi là những tổ quạ, và tiếng quang quác
chói tai, giận dữ của lũ quạ khiến tôi run còn lập cập hơn là vì lạnh. Tiếng
chim nghe đầy nhạc điệu như tiếng bố tôi hay ngân nga, bố thường bắt đầu
hát khi chúng tôi gần vắt xong sữa. Nếu sữa có bị chua thì mẹ tôi thường đổ
lỗi cho bố.
Thầy Trừ Tà dừng bước và chỉ tay về vạt đất phía trước chúng tôi khoảng
năm bước chân. “Cái gì thế kia?” thầy hỏi, giọng thầy chẳng lớn hơn tiếng
thì thầm là bao.
Đám cỏ nơi ấy đã bị xới bỏ và ngay chính giữa khoảnh đất trống trơn là
một bia mộ. Bia cắm thẳng đứng nhưng hơi nghiêng sang bên trái. Trên nền
đất phía trước bia mộ, nấm mồ gần hai mét được viền bằng những phiến đá
nhỏ hơn, điều này không bình thường. Nhưng lại có điều khác càng lạ lùng
hơn nữa: ngang qua đầu mảnh đất, được vít vào những phiến đá rìa ngoài, là
mười ba thanh sắt dày cộm.
Tôi đếm qua đến hai lần cho chắc ăn.
“A thôi nào anh bạn – ta đặt câu hỏi cho con mà. Cái gì thế kia?”
Mồm tôi khô khốc đến độ không nói nổi, nhưng tôi cũng cố lắp bắp được
ba chữ: “Là ngôi mộ...”
“Giỏi lắm. Mới nhìn lần đầu tiên mà đã nhận ra. Có thấy gì bất thường
không?”
Đến khi đó thì tôi chẳng thể nói được lời nào nữa. Tôi chỉ gật đầu.
Thầy mỉm cười vỗ về vai tôi. “Không có gì phải sợ cả. Chỉ là một mụ phù
thủy đã chết và dưới mộ ấy là một mụ phù thủy khá yếu kém. Người ta đã
chôn mụ dưới một vùng đất không thiêng bên ngoài sân nhà thờ cách đây
chẳng mấy dặm. Nhưng mụ cứ bới đất chui lên mãi. Ta đã nói chuyện phải
trái với mụ nhưng mụ chẳng chịu nghe, thế nên ta phải cho mang mụ về đây.