chỉ có thế, còn phải tính đến lời nguyền của Thầy Trừ Tà nữa chứ. Dù cho
thầy có tin hay không thì cũng không đáng để thách thức số phận làm gì.
Có vài vại bia to dựng ngay bên dưới cửa sập. Tôi đặt cây nến lên một vại
bia và dựa thanh trượng vào một bên, leo lên một vại bia khác và với được
tới ổ khóa, ổ này được lắp vào ngay trong cánh cửa sập bằng gỗ để người ta
có thể mở được cửa từ bên trong lẫn bên ngoài. Ổ khóa cũng khá đơn giản
và chiếc chìa của Thầy Trừ Tà lại phát huy tác dụng, nhưng tạm thời lúc này
tôi để cho cánh cửa sập đóng lại, phòng trường hợp ai đó bên trên lại nhìn
thấy.
Tôi mở khóa cửa dẫn ra hành lang cũng dễ dàng chẳng kém, chầm chậm
xoay chìa khóa để không phải gây ra tiếng động nào. Việc này khiến tôi
nhận ra Thầy Trừ Tà đã may mắn xiết bao khi có một người anh trai làm thợ
khóa.
Tiếp đến, tôi đẩy cửa mở để bước ra một hành lang lát đá hẹp và dài.
Hàng lang vắng lặng, nhưng khoảng trước đấy hai mươi bước về phía tay
phải, tôi có thể nhìn thấy ánh đuốc bập bùng treo trên mắc sát tường phía
trên cánh cửa đang đóng kín. Đấy phải là phòng lính canh mà huynh Peter
đã cảnh báo trước cho tôi. Xa hơn nữa dọc theo hành lang là cánh cửa thứ
hai, và qua cánh cửa ấy là những bậc cấp bằng đá dẫn lên những căn phòng
bên trên.
Tôi từ từ đi dọc hành lang về phía cánh cửa thứ nhất, hầu như là nhón
chân nhẹ nhàng và nép hẳn vào góc tối. Khi đã đến gần phòng lính canh, tôi
có thể nghe thấy âm thanh từ trong ấy vọng ra. Có người ho, người cười rồi
cả những tiếng nói chuyện rì rầm.
Thình lình tim tôi vọt phắt lên. Tôi nghe được tiếng nói trầm khàn rất gần
nơi cửa nhưng trước khi tôi kịp lẩn đi, cánh cửa đã bị đẩy tung ra. Suýt chút
nữa cánh cửa đập vào tôi nhưng tôi đã nhanh chóng né ra sau và nép người
vào bức tường đá. Nhiều tiếng ủng nặng nề bước ra hành lang.
“Ta phải quay lại với công việc của mình,” một giọng nói tôi nhận ra được
vang lên. Là giọng của tên Phán Quan và hắn ta đang nói với ai đấy đứng