không ngoái đầu lại. Sau khi bọn chúng đã leo lên các bậc cấp và đi khuất
dạng, tôi chờ thêm một đỗi cho tiếng ủng từ xa của bọn chúng chìm dần và
cho tim mình thôi không nện thình thình nữa. Chỉ đến khi đó tôi mới nghe
thấy tiếng người lao xao ở xà lim phía trước. Có ai đó đang khóc; người
khác ngân nga cầu nguyện. Tôi vội vã lao đến phía phát ra âm thanh cho đến
khi chạm phải một cánh cửa kim loại nặng trịch, một phần ba phần trên cùng
của cánh cửa là những song sắt dựng đứng.
Tôi giơ nến lên sát những chấn song và ghé mắt nhìn vào. Dưới ánh nến
nhập nhoạng, khu xà lim trông rất kinh nhưng mùi bốc ra còn khiếp hơn
nữa. Có khoảng hai mươi người bị nhồi nhét trong khoảng không nhỏ bé ấy.
Vài người đang nằm dài trên sàn trông như đang ngủ. Vài người khác đang
ngồi tựa lưng vào tường. Một người phụ nữ đang đứng gần cửa sắt và âm
thanh tôi nghe thấy là giọng của bà ta. Tôi đã đoán là bà ta đang cầu nguyện
nhưng thực ra bà ta đang lầm rầm những điều vô nghĩa với hai mắt trợn
ngược như thể những gì vừa trải qua đã làm cho bà mất trí.
Tôi không nhìn thấy Thầy Trừ Tà cũng như Alice, nhưng thế không có
nghĩa là họ không ở trong đấy. Đây đích thực là những tù nhân rồi. Những tù
nhân của tên Phán Quan sắp sửa bị đưa đi thiêu sống.
Không lãng phí thì giờ, tôi đặt thanh trượng xuống, mở khóa và chầm
chậm mở cửa ra. Tôi muốn đi vào trong tìm Thầy Trừ Tà và Alice, nhưng
trước khi cánh cửa kịp mở ra hết, người đàn bà đang lầm rầm kia đã tiến tới
trước chắn ngang lối của tôi.
Bà ta gào lên điều gì đó, khạc bao nhiêu từ ngữ vào mặt tôi. Tôi không
hiểu bà ta đang nói gì nhưng bà ta lại quá lớn tiếng đến nỗi tôi phải liếc ra
sau về phía phòng lính canh. Chỉ trong vòng vài giây, những người khác đã
kéo cả lại sau lưng bà, đẩy bà ta ra trước, về phía hành lang. Bên trái bà ta là
một cô gái, trông không lớn hơn Alice là mấy. Cô gái có đôi mắt to nâu và
khuôn mặt phúc hậu, thế nên tôi quay sang hỏi cô.
“Tớ đang tìm một người,” tôi bảo, giọng chỉ như đang thì thào.