nhúng mũi vào chuyện người khác và đôi lúc hăng hái quá mức, nhưng nói
cho cùng ông ta chỉ có ý tốt thôi. Ông ta luôn cố cứu rỗi lấy ta để đưa ta về
lại con đường ‘chính đạo’. Nhưng ông ta chỉ tốn hơi vô ích. Ta đã chọn lấy
con đường cho chính ta – và dù có đúng hay sai thì đấy vẫn là con đường ta
tiến bước.”
Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy tiếng bước chân và tim tôi chỉ muốn thót lên
cổ. Có ai đó đã quành vào ngõ hẻm và đang bước thẳng đến chỗ chúng tôi!
“Mà thôi, nói đến gia đình,” Thầy Trừ Tà nói với vẻ chẳng lấy gì làm
quan ngại, “lại thêm một thành viên nữa đang đến đây này. Đây là anh trai
Andrew của ta.”
Một người đàn ông dáng người dong dỏng mang khuôn mặt buồn rầu,
xương xẩu, đang băng qua mặt hẻm trải đá cuội tiến về phía chúng tôi. Ông
ấy trông còn lớn tuổi hơn Thầy Trừ Tà, gợi cho tôi nhớ đến một bù nhìn
được ăn mặc đàng hoàng, vì dù mang đôi ủng da tốt và ăn mặc sạch sẽ, bộ
quần áo trên người ông cứ bay phấp phới trong gió. Trông ông ấy cần phải
được ăn sáng đầy đủ hơn cả tôi nữa.
Chẳng buồn chùi đi mấy giọt nước đọng, ông ấy ngồi xuống bờ tường đối
diện với Thầy Trừ Tà.
“Tôi nghĩ sẽ tìm thấy chú ở đây. Chuyện buồn quá, chú ạ,” ông ấy rầu rĩ
nói.
“Vâng,” Thầy Trừ Tà đáp. “Giờ chỉ còn sót lại hai anh em ta. Năm anh
trai đã qua đời hết rồi.”
“John, tôi phải nói cho chú biết, tay Phán...”
“Vâng tôi biết,” Thầy Trừ Tà đáp với hơi hướm sốt ruột.
“Vậy thì chú phải rời khỏi đây thôi. Ở đây không an toàn cho cả hai người
đâu,” ông Andrew vừa nói vừa gật đầu chào tôi.
“Không đâu Andrew, chúng tôi sẽ chẳng đi đâu cho đến khi tôi hoàn tất
chuyện cần làm. Vậy nên tôi cần anh làm lại cho tôi chiếc chìa khóa đặc biệt
kia,” Thầy Trừ Tà bảo với Andrew. “Để mở cánh cổng ấy.”