Cửa trước có thể khả dĩ hơn chút nhưng vẫn còn rủi ro đánh thức Meg dậy.
Không – còn có cách khác hay hơn nhiều. Chúng ta có thể đi vào qua một
trong những cửa sổ phòng ngủ phía sau. Cửa sổ tốt nhất là cánh cửa trên
tầng ngay dưới rầm thượng, nơi mấy mỏm đá sát kề ngay bậu cửa sổ ấy.
Mấy then cài trong phòng ngủ đa phần là hoen gỉ hay gãy hết rồi. Tớ nghĩ tớ
có thể rướn tới thúc mở cửa sổ mà leo vào trong ấy.”
“Điên rồ quá,” ông Andrew thốt lên. “Ta từng ở trong phòng ngủ ấy và đã
nhìn thấy khoảng cách giữa mỏm đá và bậu cửa sổ. Khoảng cách quá rộng.
Với lại, nếu con lo đến chuyện xoay chìa khóa ở cửa hậu, thì con cứ tưởng
tượng con sẽ gây ra biết bao là tiếng ồn khi con thúc mở cửa sổ ấy chứ!”
Alice cười toe, như thể tôi vừa mới nói lên điều gì ngu xuẩn lắm vậy,
nhưng tôi nhanh chóng xóa đi nụ cười trên mặt cô gái.
“Meg sẽ không nghe thấy chúng cháu nếu có ai đó đến gõ cửa sau thật
mạnh vào ngay lúc cháu đang thúc mở cửa sổ...” tôi bảo.
Tôi quan sát mồm ông Andrew há hốc ra khi những gì tôi vừa nói từ từ
thấm vào đầu ông.
“Không chứ,” ông bảo, “con không phải muốn nói là...”
“Sao lại không hả bác Andrew?” tôi hỏi lại. “Dù sao thì bác là anh trai của
thầy Gregory cơ mà. Bác có lý do ghé thăm ngôi nhà ấy.”
“Ây dà, nhưng rồi ta có thể bị nhốt ngay xuống hầm ấy, làm tù nhân như
John mất!”
“Cháu không nghĩ thế đâu ạ. Cháu đoán là Meg thậm chí còn không ra mở
cửa nữa ấy chứ. Bà ta không muốn bất cứ ai trong làng biết là bà ta đang tự
do bằng không thì bà ta sẽ thu hút cả một đám người đến đấy. Bác có thể gõ
cửa bốn năm lần gì đấy rồi bỏ đi, cho cháu đủ thời gian cháu cần để chui qua
cửa sổ.”
“Như thế cũng có thể được đấy ạ,” Alice bảo.
Ông Andrew đẩy đĩa ra xa ngồi yên không nói một lúc lâu. “Vẫn còn một
chuyện làm ta băn khoăn,” rốt cuộc ông cũng lên tiếng. “Khoảng cách giữa