“Hượm nào anh bạn,” thầy nói với giọng thật nhân từ và thông cảm, như
thể thầy biết chính xác tôi đã làm gì. “Mọi chuyện đã rất khó khăn với tất cả
chúng ta và chúng ta có nhiều điều phải trao đổi thấu đáo lắm. Nhưng mà
chuyện ấy để sau. Trước hết còn có việc phải được làm đã...”
Nói đoạn, với ông Andrew giơ cao nến đi trước dẫn đầu, chúng tôi bước
xuống bậc thang. Khi chúng tôi tiến gần đến mụ phù thủy còn sống, ông
Andrew dừng lại và ngọn nến trong tay ông bắt đầu run rẩy.
“Andrew, đưa nến cho cậu này đi,” Thầy Trừ Tà bảo. “Tốt nhất là anh đi
lên trên kia chờ ngoài cửa cho mấy anh thợ nề thợ rèn đến. Rồi anh có thể
bảo với họ là chúng tôi ở dưới này.”
Thở dài nhẹ nhõm, ông Andrew đưa lại cho tôi cây nến, rồi sau khi gật
đầu về phía Thầy Trừ Tà, ông bước lên cầu thang. Thầy trò tôi tiếp tục bước
xuống cho đến khi xuống tận tầng hầm, trần hầm chăng đầy mạng nhện.
Thầy Trừ Tà dẫn đường thẳng đến hố dành cho mụ nữ yêu, tại nơi này các
thanh sắt đều đã ngoác rộng ra, chừa đủ chỗ để thả mụ ta xuống vùng bóng
tối – và Thầy Trừ Tà không bỏ phí một giây nào để bắt tay ngay vào chuẩn
bị việc này.
“Nào con, nghênh trượng sẵn sàng!” thầy ra lệnh.
Và tôi bước đến sát bên thầy, ngọn nến trong tay phải tôi soi rọi xuống mụ
nữ yêu và chiếc hố, cây trượng gỗ thanh hương trà trong tay trái tôi lăm lăm
sẵn sàng chọc thẳng xuống dưới.
Thầy Trừ Tà giơ mụ nữ yêu ngang ngay những thanh sắt hở rộng, và với
một động tác giật tay đột ngột, thầy ngoắt sợi xích sang phải, búng nhẹ. Sợi
xích bung ra, và cùng một tiếng thét chói tai, mụ nữ yêu rơi vào vùng tối.
Tức thời Thầy Trừ Tà quỳ xuống cạnh hố và bắt đầu đan sợi xích quanh các
thanh sắt ngang qua phần hở ra để tạo nên một lớp rào chắn tạm thời cho mụ
nữ yêu không vượt qua được. Từ vùng tối tăm dưới kia, mụ nữ yêu phẫn nộ
rít lên phía chúng tôi nhưng không cố sức trườn lên; chỉ trong chốc lát công
việc đã hoàn tất.