những gì mình có ở Chipenden, nào là rừng cây, đồng ruộng, nào là những
rặng đồi đá cao cao cùng bầu trời bao la trên đầu. Ở đấy, chúng tôi thoải mái
đưa mắt nhìn bao quát xuống toàn cảnh bên dưới; còn tại đây, chúng tôi lại
bị mắc kẹt trong một chiếc hố vừa dài, vừa sâu, lại hẹp.
Tôi thấp thỏm liếc nhìn lên mép hẻm núi tối đen vươn chạm đến bầu trời.
Bất cứ ai hay bất cứ thứ gì đều có thể đứng trên đấy chõ mắt nhìn xuống
chúng tôi mà chúng tôi không hề hay biết.
“Rồi đấy anh bạn, chúng ta đến nơi rồi. Đây là ngôi nhà mùa đông của ta.
Chúng ta có nhiều việc phải làm lắm đấy: dù mệt hay không, chúng ta vẫn
phải bắt tay vào thôi!”
Thay vì bước thẳng đến cửa trước, Thầy Trừ Tà lại dẫn đường đi vòng ra
khoảng sân nhỏ lát đá phía sau nhà. Từ cửa sau này bước tới ba bước sẽ dẫn
chúng tôi đến ngay vách đá đối diện, nơi đang nhỏ nước long tong và mắc
đầy băng nhũ, giống như hàm răng của con rồng trong câu chuyện khoác
lác/ hoang đường mà một trong những ông bác thường hay kể cho tôi nghe.
Tất nhiên, nếu là trong một cái mồm nóng rực như trong truyện ấy thì
những “chiếc răng” kia sẽ bốc hơi ngay lập tức; nhưng tại nơi lạnh lẽo phía
sau ngôi nhà này thì chúng sẽ tồn tại gần như cả năm, và một khi trời đổ
tuyết, sẽ chẳng có cách nào dẹp hết chúng cho mãi đến nửa mùa xuân sau.
“Ở đây chúng ta luôn sử dụng cửa sau nhé anh bạn,” Thầy Trừ Tà vừa nói
vừa lấy từ trong túi ra chiếc chìa khóa mà ông anh Andrew của thầy, bác thợ
khóa ấy, đã làm cho. Chiếc chìa này mở được bất cứ cánh cửa nào miễn là ổ
khóa không quá phức tạp. Tôi cũng có một chìa tương tự và nó hữu dụng
không chỉ có một lần.
Chiếc chìa mắc cứng trong ổ khóa và cánh cửa dường như không chịu
mở. Khi đã vào trong nhà rồi, tôi thấy thật chán vì căn phòng tối hết sức,
nhưng Thầy Trừ Tà đã đặt thanh trượng tựa vào tường, lấy từ trong túi đeo
ra một cây nến mà châm lên.
“Đặt mấy chiếc túi lại đằng đó,” thầy chỉ tay vào chiếc kệ thấp cạnh cửa
sau.