Sau khoảng một giờ đồng hồ, thầy trò chúng tôi đã nhóm xong xuôi sáu lò
sưởi: một trong nhà bếp, một trong phòng khách, một trong nơi mà Thầy
Trừ Tà gọi là “phòng làm việc” nằm ngay tầng trệt, và từng lò sưởi một
trong ba phòng ngủ trên tầng một. Còn có bảy phòng ngủ khác nữa, bao gồm
cả căn trên rầm thượng, nhưng chúng tôi không cần bận tâm đến mấy căn
phòng đó.
“Được rồi anh bạn, khởi đầu vậy là tốt rồi,” Thầy Trừ Tà bảo. “Giờ chúng
ta phải đi lấy nước về.”
Mỗi người xách một chiếc vại thật to, thầy trò tôi lại theo đường cửa sau
vòng ra trước nhà, từ đấy Thầy Trừ Tà dẫn đường đi ra suối. Con suối này
sâu như thoạt trông là thế, nên việc múc đầy nước vào hai chiếc vại thật dễ
dàng; nước suối thật sạch, thật lạnh và thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy
những tảng đá dưới đáy. Đấy là một con suối tĩnh lặng, chẳng tạo ra âm
thanh nào khác hơn ngoài tiếng khe khẽ rì rầm khi chảy xuống hẻm núi.
Nhưng ngay khi vừa múc đầy nước vào vại của mình, tôi cảm nhận được
một cử động ở đâu đó phía trên xa kia. Thật sự thì tôi không nhìn ra được gì;
nói đúng hơn đấy chỉ là cảm giác bị quan sát, và khi tôi ngước nhìn lên nơi
vách đá tạo thành một mép đen tối trên nền trời xám xịt, trên đấy chẳng có
gì cả.
“Này anh bạn, đừng nhìn lên chứ,” Thầy Trừ Tà gắt, giọng thầy thoáng
chút bực bội. “Đừng để cho hắn hả hê. Cứ vờ như là con không để ý đến đi.”
“Hắn là ai thế ạ?” tôi hỏi, bụng rất lo lắng khi tôi theo chân Thầy Trừ Tà
trở vào nhà.
“Khó nói lắm. Ta không nhìn lên nên không chắc chắn được,” Thầy Trừ
Tà đáp, thình lình thầy dừng phắt lại và đặt vại nước xuống. Đoạn thầy
nhanh chóng đổi đề tài. “Con nghĩ sao về ngôi nhà này nào?” thầy hỏi.
Bố tôi đã dạy là phải nói thật bất cứ khi nào có thể, và tôi biết Thầy Trừ
Tà không phải là người dễ dàng bị tổn thương. “Con thà sống trên đỉnh đồi
còn hơn là sống như con kiến trong khe nứt sâu giữa mấy phiến đá lát đường