Tôi làm theo rồi đặt thanh trượng của mình cạnh trượng của thầy nơi góc
phòng trước khi theo bước thầy đi vào sâu trong nhà.
Mẹ tôi hẳn sẽ choáng váng với tình trạng của căn bếp. Đến lúc này, tôi
khá quả quyết là không có ông kẹ nào chăm nom làm việc ở đây. Rõ ràng là
đã chẳng có ai coi sóc nơi này kể từ khi Thầy Trừ Tà rời khỏi đây vào cuối
mùa đông năm trước. Bụi bám khắp mọi bề mặt, mạng nhện giăng đầy từ
trần nhà rũ xuống. Nồi niêu chưa rửa chất thành đống cao trong bồn rửa
chén và trên bàn còn có nửa ổ bánh mì xanh lè những mốc. Lại có thêm một
thứ mùi khó chịu nồng nồng thoang thoảng, như thể có thứ gì đó đang nằm
mục ruỗng từ từ trong góc nhà tối om. Cạnh lò sưởi là chiếc ghế đu giống
như ghế của mẹ tôi ở nông trại. Quàng qua lưng ghế là một chiếc khăn sam
màu nâu trông như thể cần phải được giặt giũ tận tình vào. Tôi thắc mắc
chẳng biết khăn này là của ai.
“Nào anh bạn,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, “ta nên bắt tay vào việc thôi.
Trước hết là phải sưởi ấm căn nhà. Xong việc đó rồi thì chúng ta sẽ bắt đầu
lau dọn.”
Bên hông ngôi nhà là chiếc lán gỗ lớn chứa đầy than. Tôi chẳng muốn
nghĩ đến việc làm thế nào đem được từng ấy than lên hẻm núi. Ở Chipenden,
hàng tuần tôi được phái đi thu gom nhu yếu phẩm nên tôi chỉ hy vọng rằng
việc đi gom từng giỏ than sẽ không phải là một trong những việc mình phải
làm ở đây.
Có hai thùng đựng than thật lớn, thầy trò tôi chất đầy than vào đấy và đem
chúng trở vào bếp.
“Biết cách nhóm than cháy thật ngon lành chứ?” Thầy Trừ Tà hỏi.
Tôi gật đầu. Vào mùa đông, hồi còn ở trong nông trại, nhiệm vụ đầu tiên
của tôi vào mỗi sớm là nhóm lửa trong bếp.
“Thế thì được rồi,” Thầy Trừ Tà bảo. “Con sẽ nhóm lửa lò này, còn ta sẽ
lo cho lò trong phòng khách. Có đến mười ba lò sưởi trong căn nhà cũ kỹ
này, nhưng bây giờ chỉ cần nhóm sáu lò là đủ bắt đầu làm mọi thứ ấm lên
rồi.”