kẹ có thể bị buộc phải di dời khỏi nơi mà bọn chúng đã cư ngụ yên lành
trong mấy năm trời. Tối hôm qua một ông kẹ đã di chuyển qua dưới nhà
chúng ta. Ta xuống hầm chỉ để xem xem mọi thứ có được an toàn chắc chắn
không thôi.”
Lúc còn ở Chipenden Thầy Trừ Tà đã kể cho tôi nghe về các hóc xoáy.
Đấy là những mạch quyền lực dưới lòng đất, kiểu như những con đường mà
vài loại ông kẹ sử dụng để di chuyển nhanh chóng từ nơi này sang nơi khác.
“Mà này, đôi khi điều ấy nghĩa là sẽ có rắc rối trong tương lai đấy,” thầy
nói tiếp. “Khi bọn ông kẹ dựng ổ tại chỗ mới, thường bọn chúng sẽ bắt đầu
tác oai tác quái – nhiều khi còn là những trò tai quái nguy hiểm – và thế
nghĩa là chúng ta có việc phải làm. Nhớ lấy lời ta nhé anh bạn, rất có khả
năng ta phải đối phó với một ông kẹ ngay trong vùng này trước cuối tuần
đấy.”
Sau bữa điểm tâm, chúng tôi đi vào phòng làm việc của Thầy Trừ Tà để
bắt đầu bài học tiếng La Tinh của tôi. Phòng làm việc là một căn phòng nho
nhỏ chứa vài ba chiếc ghế gỗ lưng thẳng đứng, một chiếc bàn lớn, một chiếc
ghế đẩu ba chân bằng gỗ, mấy tấm bảng nhẵn nhụi và rất nhiều kệ sách cao
cao tối màu. Trong này cũng hơi se lạnh nữa: lò sưởi nhóm hôm qua nay chỉ
còn là nhúm tro xám trong lò.
“Ngồi xuống đi anh bạn. Mấy chiếc ghế này cứng quèo nhưng khi con
đang học thì không nên quá thoải mái êm ái làm gì. Ta không muốn con ngủ
gật đâu,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, đưa mắt sắc lạnh nhìn tôi.
Tôi nhìn quanh mấy kệ sách. Căn phòng âm u, chỉ được chiếu sáng bằng
ánh sáng xám xịt từ cửa sổ và vài ba ngọn nến, nên mãi đến lúc ấy tôi mới
nhận ra là các kệ sách đều trống trơn.
“Sách đâu hết rồi ạ?” tôi hỏi.
“Đem về Chipenden hết rồi – chứ con nghĩ còn ở đâu nữa nào? Giữ sách
ở đây trong thời tiết lạnh và ẩm thấp này thì chả ích lợi gì. Sách không chịu
được điều kiện khí hậu như thế đâu. Không, chúng ta sẽ chỉ phải xoay xở
bằng những gì đã mang theo và có lẽ là tự viết ra những điều mình nghiên