thôi...”
Lẽ đương nhiên, tầng thứ tư và là tầng sâu nhất, chính là tầng hầm. Thậm
chí trước khi chúng tôi quành qua khúc quanh cuối cùng và tầng hầm hiện
ra, tôi đã nghe được những tiếng động đủ khiến cây nến trên tay run lẩy bẩy,
làm bóng Thầy Trừ Tà nhảy múa loạn xạ.
Có những tiếng rên rỉ lẫn thều thào, và kinh khủng nhất là còn có âm
thanh sồn sột khe khẽ. Là con trai thứ bảy của người con thứ bảy, tôi có thể
nghe thấy những thứ mà phần lớn người ta không nghe ra, nhưng tôi chẳng
khi nào thật sự quen được với chuyện này. Có những ngày tôi can đảm hơn
những ngày khác, tôi chỉ có thể nói thế thôi. Thầy Trừ Tà trông có vẻ khá
bình tĩnh, nhưng mà thầy đã làm việc này cả đời rồi còn gì.
Tầng hầm thật lớn, còn lớn hơn là tôi hằng tưởng, lớn đến nỗi thực tế nơi
này hẳn còn rộng hơn diện tích thật của tầng trệt nhà trên. Một bên vách
đang nhỏ nước thành giọt còn trần hầm thâm thấp ngay trên đầu thì ẩm rì ẩm
rịt, làm tôi băn khoăn không biết có phải tầng hầm này nằm ngay mép con
suối hay thật ra là nằm dưới con suối.
Phần trần hầm khô ráo lại phủ đầy mạng nhện, vừa ken dày vừa đan xen
rối rắm đến nỗi hẳn phải có một quân đoàn nhền nhện lao động mới tạo ra
nổi. Chứ nếu chỉ có một hai con nhện nào đó dệt nên mớ mạng nhện kia thì
tôi chẳng muốn giáp mặt với thứ nhện ấy đâu.
Tôi bỏ nhiều thời gian quan sát trần và vách hầm vì tôi đang trì hoãn
khoảnh khắc phải nhìn xuống sàn. Nhưng sau vài giây, cảm nhận được ánh
mắt Thầy Trừ Tà đang dán vào mình nên chẳng còn lựa chọn nào khác, tôi
đành ép mình hạ tầm nhìn xuống.
Tôi đã từng trông thấy Thầy Trừ Tà nhốt giữ gì trong hai khu vườn ở
Chipenden. Tôi cứ tưởng ở đây cũng chỉ thêm những thứ tương tự, nhưng
trong khi ở Chipenden các ngôi mộ và hố được đào rải rác xen giữa rừng
cây, nơi ánh mặt trời thi thoảng chiếu sáng làm cây đổ bóng loang lổ xuống
đất, nơi đây lại có lắm mộ hơn nhiều và tôi cảm thấy mình như bị mắc kẹt,
bị bốn bức vách lẫn trần hầm đầy mạng nhện nhốt kín.