lắng rồi. Có bao nhiêu việc cần làm nhưng lại không an toàn chút nào khi ra
khỏi nhà.”
“Được, anh quay về bảo với bố anh là ta đang trên đường xuống đấy. Còn
về công việc, cứ vắt sữa bò đi rồi chỉ làm những việc cần thiết. Đám cừu có
thể tự lo cho chúng, ít nhất là cho đến khi trời đổ tuyết, cho nên các anh hãy
tránh xa khu vực sườn đồi đi nhé.”
Khi William đi rồi, Thầy Trừ Tà quay sang tôi lắc đầu với vẻ mặt nghiêm
trọng. “Chuyện không hay đấy, anh bạn,” thầy bảo. “Kẹ ném đá có quấy phá
thật nhưng hiếm khi giết hại người, nên ông kẹ lần này là thứ lật lọng và rất
có thể sẽ làm như thế nữa. Trước đây ta từng xử lý một hai tên như thế và
thường kết thúc với ít nhất là một cái đầu đau nhức. Việc này khác với việc
xử lý một kẹ xé xác, nhưng đôi khi cũng rất nguy hiểm. Đã từng có các thầy
trừ tà bị kẹ ném đá giết chết.”
Mùa thu rồi tôi từng đối phó với một kẹ xé xác. Khi ấy Thầy Trừ Tà bị
ốm nên tôi phải ra tay mà không có thầy, với sự giúp sức của một anh thợ
chằng cùng thợ phụ. Việc ấy khá đáng sợ vì kẹ xé xác thường lấy mạng con
mồi. Đối phó với kẹ ném đá lần này cũng phải e dè lắm, nhưng mà theo kiểu
khác. Bạn chẳng thể làm gì nhiều để bảo vệ chính mình khỏi những tảng đá
từ trên trời rơi xuống!
“Chà, ai đó phải làm việc này thôi!” tôi vừa nói vừa mỉm cười, cố trưng ra
gương mặt can đảm.
Thầy Trừ Tà nghiêm nghị gật đầu. “Chắc chắn là thế, anh bạn, nên chúng
ta hãy bắt tay vào việc nào.”
Vẫn còn việc cần phải hoàn tất trước khi chúng tôi lên đường. Thầy Trừ
Tà dẫn tôi trở vào phòng khách và bảo tôi lấy chiếc bình thủy tinh màu nâu
dán nhãn “TRÀ THẢO DƯỢC” xuống.
“Này con, pha thêm cho Meg tách trà nữa,” Thầy Trừ Tà bảo. “Chỉ có
điều lần này phải pha đậm hơn. Con rót đẫy vài lóng tay đi. Chừng đó sẽ đủ
tác dụng vì chúng ta sẽ quay về trong tuần thôi.”