“Nào phải đâu anh bạn!” Thầy Trừ Tà nói, mắt liếc tôi theo một trong
những cách nhìn coi thường của thầy. “Nghe giống thở dài hơn là ngáy
chứ!”
À thì, chắc hẳn với tôi lại nghe như tiếng ngáy, và tôi chỉ có thể nghĩ rằng
Thầy Trừ Tà không thích những lời chê bai cho dù là nhẹ nhàng nhất về
Meg. Mà thôi, dứt lời, thầy trò tôi đi lên mấy bậc thang, khóa cổng sắt lại và
gói ghém đồ đạc chuẩn bị cho chuyến hành trình.
Chúng tôi đi về hướng đông, leo sâu hơn vào trong hẻm núi, cho đến khi
khe núi trở nên hẹp đến mức hai thầy trò gần như phải bước đi ngay giữa
lòng suối, còn trên đầu chỉ còn một khe trời tí xíu xám xịt. Và rồi, thật ngạc
nhiên làm sao, chúng tôi bắt gặp vài bậc thang được đẽo vào trong vách đá.
Các bậc thang nhỏ hẹp, dốc đứng, trơn trượt, đôi chỗ còn vương vài mảng
băng. Tôi đang vác chiếc túi nặng trịch của Thầy Trừ Tà, nghĩa là, nếu trượt
chân, tôi chỉ có một tay còn rảnh để tự cứu mình.
Theo chân thầy mình, tôi cố gắng leo lên mà không xây xát gì, và chắc
chắn là cũng bõ công leo lên lắm vì tôi lại được tận hưởng bầu không khí
trong lành với khoảng không bốn bề mở rộng. Cơn gió đang quật phần phật
không khéo là thổi bật chúng tôi bay khỏi đồng hoang, các đám mây thì âm
u đầy đe dọa, lại còn đua nhau trôi sát qua đầu chúng tôi đến nỗi có cảm giác
như ta có thể với tay lên và chạm vào chúng.
Như tôi đã nói, là vùng đồng hoang, Anglezarke tuy nằm trên cao nhưng
lại bằng phẳng hơn các rặng đồi đá chúng tôi bỏ lại ở Chipenden nhiều. Tuy
nhiên cũng có vài ngọn đồi cùng thung lũng, một số mang hình dáng khá kỳ
quặc. Một ngọn đồi nổi bật hẳn lên vì đấy là mô đất bé nhất, tròn và nhẵn
đến mức chẳng thể nào là tự nhiên được. Khi chúng tôi đi qua mô đất này,
tôi bỗng nhận ra đây chính là gò mả mình từng trông thấy tên con trai nhà
Hurst.
“Đây là nơi con đã thấy Morgan đấy ạ,” tôi bảo với Thầy Trừ Tà. “Khi ấy
hắn đang đứng ngay trên đỉnh mô đất này.”